Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

CON VẬT THẦN THÁNH

Phiên bản Dịch · 8437 chữ

Nhóm dịch: Valvrareteam

CHƯƠNG 1: CON VẬT THẦN THÁNH

Mưa tầm tã. Bầu trời đầy mây chạm tới tầm mắt, như thể bầu trời trên toàn thế giới đã được bao phủ bởi những đám mây mưa. Những giọt mưa không ngừng rơi xuống làm lầy mặt đất và chầm chậm cướp đi thân nhiệt của người đang đi trong nó. Đến cả một cái áo khoác vải dầu cũng chẳng giúp được gì. Cảm giác như thể không khí lạnh đang từ từ ngấm vào người cậu.

Yukinari thực không thể tưởng tượng nổi điều gì khó chịu hơn nữa.

“Có lẽ đây là ý tồi đấy.” Cậu nhìn quanh. Xung quanh cậu là khung cảnh của rừng núi.

Lúc đầu việc đến đây có vẻ không phải là một ý tưởng tệ: con đường nghiêng không quá dốc, và có hàng hàng lớp lớp cây trông có vẻ bằng cách nào đấy dùng được làm nơi trú mưa. Tuy nhiên, trong cơn lụt sát nút này, thì đúng là chẳng khác nào gạn nước ra bằng cái sàng, chẳng những thế, nền đất bùn lầy lội lá ướt còn dễ gây trượt chân, khiến cho việc đi lại cực kì khó.

“Nản… thật đấy…” thiếu nữ đang đi kế bên Yukinari lầm bầm. Nàng có gương mặt xinh xắn, nhưng nhìn tổng thể thì trông nó hơi uể oải, như thể nàng ta vừa ra khỏi giường và vẫn còn đang ngái ngủ. Nếu là người rộng lượng, thì họ sẽ gọi đó là một khuôn mặt tràn đầy sự kute thuần khiết. Ít hào phóng hơn, thì sẽ nói rằng khi so sánh với những khuôn mặt khác, mặt cô nàng cảm giác như bị thiếu cái gì đấy. Hoặc đúng hơn là không thể nào làm lung lay cái ấn tượng rằng cô nàng giống một con búp bê, một ấn tượng được làm nổi bật qua mái tóc bạc cắt ngắn và cặp kính dày.

Trong lúc đi, cô nàng tháo kính và tiếp đến lau chúng bằng miếng vải vừa lấy ra từ trong túi. Tuy nhiên, có lẽ là vì nàng ta lặp lại điều này hơi bị nhiều, nên chính miếng vải thành ra cũng bị ướt và, ngay cả khi đã lau chùi kĩ lưỡng, thì những giọt nước nhỏ vẫn còn bám trên thấu kính. Chắc hẳn đối với cô nàng thì cơn mưa bất tận này kinh khủng hơn gấp nhiều lần so với những người không đeo kính.

Yukinari quay sang nhìn cô và gọi. “Ê! Đang đi thì đừng có làm thế chứ—”

Bẹp. Cô nàng trượt chân và thân hình nhỏ nhắn ngã sầm xuống đất, bùn bắn tán loạn.

“Ưrg. Anh đã bảo em thế nào?” Yukinari nói. Thở dài, cậu dừng lại kế bên cô nàng và chìa tay ra. “Ổn chứ, Dasa?”

“Êuuu… Ướt hết… rồi,” Dasa lẩm bẩm, gỡ mình ra khỏi nền đất. Cô đặt lại cặp kính vào túi trong, bám lấy tay Yukinari, và lôi mình dậy. Không có kính thì thậm chí cô còn chẳng thể nhìn rõ chân mình, và trong làn mưa thế này thì tầm nhìn sẽ ngày càng tệ. Họ đã đi xa được tới mức này bởi chính cô nàng cứ khăng khăng rằng mình có thể cân được tuốt, song dù thế nào thì chắc với cô thế này cũng là quá nhiều.

“Ưrg…” Yukinari giúp Dasa lấm lem bùn đất đứng vững trở lại, rồi cúi xuống trước mặt cô. Mặc dù cô nàng đang mặc áo khoác, sự vấp và ngã chắc chắn cũng đã khiến cho các lớp dưới của nó ướt sũng hết cả. Nếu cứ bị bỏ mặc thế này thì cô nàng dần dần sẽ bị nhiễm lạnh. “Chắc cô sắp bị cảm mất. Tốt hơn hết chúng ta nên tìm nơi nào đó để trú mưa và hong khô quần áo.”

“Quanh… đây á?”

Như đã đề cập trước đó, dù lợi hay hại, thì đây cũng là một ngọn núi dốc nhẹ. Tuy có nhiều cây, nhưng chẳng hề có dấu hiệu của bất cứ cái hang hay bãi đá nào có thể được dùng như một cái mái.

“Chắc phải ở đâu đó chứ, hốc của một cái cây to hay gì đấy… Là mơ hão chăng?” Yukinari nhìn quanh quất, nhưng chẳng thể tìm thấy thứ gì tương tự.

Có lẽ họ nên ở lại thị trấn trước đó lâu hơn một chút. Có khả năng họ sẽ “để lại dấu vết” nếu ở lại một nơi trong thời gian dài, nên đã chủ tâm quyết định khởi hành sau phần chuẩn bị vừa phải. Có lẽ đối với Yukinari thì đó là nước đi đúng đắn, nhưng với Dasa thì có khi không phải: lúc này khi điều đó đã xảy ra, tình trạng thể chất của cô nàng đang gặp nguy hiểm. Dĩ nhiên, bây giờ có tiếc cũng chẳng thay đổi được gì.

“Dasa. Đi được không?” Yukinari hỏi, đoạn chìa tay ra phía nàng.

“Em nghĩ mình… ổn,” nàng nói, níu lấy cánh tay Yukinari lần nữa. “Xin lỗi… Yuki.”

“Không sao. Đừng bận tâm cái đó.” Yukinari thở dài một tiếng và lại bắt đầu cùng Dasa bước tiếp.

Cơn mưa không hề có dấu hiệu dừng lại.

Friedland là một thị trấn nhỏ trên núi. Nó nằm trong một lưu vực kẹp giữa các vùng núi phía đông và tây, và bị ảnh hưởng trực tiếp bởi khi hậu núi non thất thường. Dĩ nhiên, điều đó khiến nó trở thành một nơi nhận được phước lành dồi dào của tạo hóa, nhưng mặt khác, ở đó chỉ có một lượng đất giới hạn thích hợp cho việc trồng trọt. Và bởi khu vực này không có gì độc đáo, nên thị trấn không ổn định về mặt tài chính, và cũng không được gọi là giàu có.

Tuy nhiên, ngay cả ở những nơi như vậy, loài người vẫn phải làm những gì cần thiết để tồn tại. Rất ít người có thể rời khỏi mảnh đất chôn rau cắt rốn của họ, và điều này đúng không chỉ với cư dân của Friedland. Ảnh hưởng của nhà nước, có nghĩa là để duy trì trật tự quốc gia, đã gặp khó khăn trong việc mở rộng ra các vùng miền xa xôi như thế này. Mọi người luôn tự lo liệu lấy cái thân của mình mỗi khi đi đây đi đó, và một khi họ ở vào khoảng cách nhất định so với bất kì thị trấn hay làng mạc nào, thì những mối nguy chẳng hề thiếu: không chỉ có những kẻ bất tuân luật lệ, tất nhiên, như kiểu trộm cắp và cướp ban đêm, mà còn động vật hung dữ, bán thần, và ngoại thú.

“Ê. Nhìn kìa.”

Men theo con đường chính băng qua trung tâm của Friedland và dẫn tới con đường ngoài thị trấn là đám rước hàng tá người và một ngôi đền nổi trơ trọi. Những người trong đám rước mặc áo dài nhuộm màu chàm, và tất cả đều cầm sào với chuông trong tay. Mỗi lần họ cất bước, hàng loạt tiếng chuông đơn điệu, rõ ràng lại vang lên, và họ lết theo vết những chiếc bánh xe lớn gồng gộc lăn đều trên nền đất.

Đó là một cuộc diễu hành làm lễ. Sự kiện này, được tổ chức ba năm một lần, nay đã trở thành một cảnh tượng quen thuộc đối với nhiều dân cư của thị trấn. Hình ảnh cô gái ngồi trên đỉnh xe trước với đầu cúi gằm cũng là một người mà mọi người đều biết rõ. Bộ quần áo mỏng cô đang mặc giống như đồ lót, và mấy miếng vải làm nên nó mỏng đến nỗi da cô có thể được nhìn xuyên qua chúng. Bộ quần áo này là thứ được làm đặc biệt cho nghi thức mỗi lần nó diễn ra, và tùy thuộc vào cách nhìn của bạn, mà nó có thể được coi là cực kì khêu gợi.

Đám đông những người đang đứng nhìn đoàn diễu hành làm lễ đang thì thầm trao đổi. “Vu nữ năm nay trẻ quá đi mất,” ai đó xì xào. Chẳng hề có sự phấn khích trong lời lẽ của họ; thay vì sự hân hoan của những người tham dự lễ, giọng họ mang tông ảm đảm, thều thào gợi cảm giác nhẫn nhục.

Chẳng mấy chốc, đoàn diễu hành đến đích.

“Ra đi.” Mệnh lệnh đến từ ba vị linh mục đang đứng ở đầu hàng.

“Vâng…” Berta gật đầu ngoan ngoãn và xuống xe rước.

Những sợi xích dài nối từ chân cô tới xe rước leng keng ồn ã. Các vị linh mục tháo xích. Rồi, cầm ở đầu cuối của chúng, họ dẫn Berta xuống cuối con đường.

Có một “thánh địa” ở đó. Dĩ nhiên, đó chỉ là cái tên được gọi bởi những vị linh mục; tòa nhà nơi họ thường ngủ lại nằm trong thị trấn, đúng như người ta mong đợi. Đáng chú ý hơn, nơi được dựng lên trên núi này là một địa điểm hành lễ. Tóm lại, nơi này là nhà của một vị thần, khiến nó thành “nhà của Thần” theo nghĩa đen nhất có thể.

Tuy là “nhà”, nhưng lại chẳng có tường. Chỉ có một mảnh đất (loại điển hình mà một ngôi nhà kiểu Friedland có thể đã được xây dựng trên đó), một số cột đá lớn xếp thành hình elip, và một tảng đá phẳng lớn trên đỉnh chúng. Không hề có cấu trúc nào khác—chỉ thế thôi.

Không thể nói lên cách mà ai đó đã tạo ra được những khối đá nguyên chất như thế; cũng như cách chúng được đặt lên đỉnh mấy cây cột đá. Đó là do thần làm. Thần đích thực là thần bởi họ sẵn lòng làm những việc con người không thể làm được, và đó cũng chính là lí do người ta nằm phủ phục trên nền đất và thờ phụng họ.

“Chỗ này.” Các linh mục đưa cô đến chính giữa thánh địa.

Một cái cọc đã được đóng xuống nền đất. Trên đỉnh cái cọc là chiếc nhẫn, cũng làm bằng sắt, nơi các vị linh mục móc nối mấy sợi xích kéo dài từ chân Berta. Các vị linh mục đang làm việc hiệu quả. Có vẻ họ quen với thủ tục này, và hơn nữa họ còn có động lực mạnh mẽ để hoàn thành việc này nhanh chóng và rời khỏi. Có thể họ là linh mục, nhưng họ vẫn là con người. Họ sợ các vị thần chẳng kém gì người đứng cạnh—mà thực ra, còn hơn cả thế ấy chứ.

“Hãy chắc rằng cô làm tròn công việc của mình,” một người lên tiếng.

“Vâng…” Berta gật đầu đáp lại lời vị linh mục. Dĩ nhiên, cô hiểu nghĩa của từ “công việc”, nhưng lúc này cô không có ý định hoảng sợ. Có lẽ bởi điều này đã được nhấn mạnh với cô suốt hàng năm ròng, nên bây giờ nỗi sợ cũng là một cảm giác gì quen thuộc lắm.

Các vị linh mục gật đầu với phần còn lại của đoàn diễu hành. Đoàn diễu hành gật đầu đáp lại và bắt đầu hướng trở về con đường mà họ đã đến, kéo cỗ xe rước theo hướng ngược lại và để Berta một mình. Dĩ nhiên, các vị linh mục sẽ giám sát quá trình hành lễ từ một nơi cách đó không xa. Điều này là để đề phòng trường hợp “vu nữ” đánh mất dũng khí vào thời khắc cuối cùng và cố trốn thoát, hoặc cư xử theo lối bất kính trước mặt vị thần khi ngài xuất hiện. Người ta nói rằng trước kia điều này đã từng xảy ra, và mỗi lần như thế, các vị linh mục lại hiến thêm một “vu nữ” để dập tắt cơn giận của thần.

Dĩ nhiên, Berta không hề có ý định làm điều gì như vậy. Nếu cô không thể làm “công việc,” của mình thì một “vu nữ” khác sẽ được lựa chọn từ “các em gái” của cô tại trại trẻ mồ côi để xoa dịu thần. Tất nhiên, họ chỉ là “gia đình” trên danh nghĩa, chứ không chung máu mủ, song những cô gái ấy rất quan trọng đối với Berta, người thậm chí còn chẳng biết mặt mũi cha mẹ mình trông thế nào. Trong lúc lần lượt hình dung lại khuôn mặt của từng “đứa em”, Berta thở dài.

Đột nhiên cô cau mày vì bối rối. Cô nghe thấy tiếng động nhỏ quanh quất. Trong một khắc, cô đã nghĩ rằng thần—vị thổ thần—đã xuất hiện, nhưng nếu thế thì, điều đầu tiên mà cô nghe thấy phải là tiếng bước chân và gầm gừ vang dội. Cô chưa bao giờ nghe nói về vị thần nào ẩn nấp trong bóng của trụ thờ và bí mật chờ đợi “vu nữ” xuất hiện cả.

“Không lẽ nào—” Berta bước về hướng phát ra âm thanh. Sợi xích có độ dài nhất định nên ít ra cô có thể đi lại loanh quanh trong thánh địa. Cô đi ra mặt “sau” của nó—mặt đối diện nơi vào. Cô ngó quanh một cây cột phía trong cùng và giật nảy mình.

Một chàng trai và một cô gái đang ngồi ở đó, dựa lưng vào cây cột. Cả hai đều là lữ khách—họ đang mặc áo khoác và dựa vào nhau mà ngủ. Cũng có cả vết lửa trại dưới chân họ. Chắc hẳn họ đã hứng chịu cơn mưa rào mới đổ không lâu trước đó và lấy thánh địa này làm nơi trú ẩn, rồi vì đi mệt quá nên đã bất cẩn ngủ thiếp đi cùng một lúc. Tiếng động mà cô vừa nghe thấy chắc hẳn là do một trong hai người họ trở mình trong lúc ngủ. Thế nhưng—

“Những người này…”

Ăn mặc hơi kì lạ. Mà không, nói chính xác thì cả chàng trai lẫn cô gái đều có những đồ vật hơi bất thường trên người họ.

Trước hết, chàng trai cao gầy. Chắc cậu ta cùng tuổi với Berta: tuổi thiếu niên hay tầm khoảng đó. Cậu có một gương mặt điển trai. Ngay cả lúc đang ngủ, mặt cậu không nới lỏng, mà trông nghiêm nghị, như thể cậu đã trải qua một khoảng thời gian khổ sở lâu đến mức nét mặt bị cứng lại. Cậu có mái tóc màu bạch kim mềm mại, rực rỡ thật phí phạm đối với một chàng trai, nhưng đó lại là điểm nổi bật duy nhất ở cậu; không còn gì khác đặc biệt độc đáo ở ngoại hình nữa.

Tuy nhiên, thứ cậu mang bên mình Berta chưa từng nhìn thấy bao giờ cả. Cô tưởng rằng chắc đó là một thanh kiếm. Trông vỏ của nó thì tựa một vũ khí dài. Không giống một thanh kiếm bình thường, tuy nhiên, tay cầm của nó lại rất cồng kềnh, hơn cả là khung của nó. Hình thù kỳ quái, lớn hơn mức cần thiết, như thể lưỡi của thanh kiếm đã bị bó chặt vào một cây gậy. Ngoài ra, có một số bộ phận kim loại được gắn vào tay cầm. Nhìn tổng thể giống như một loại dụng cụ nào đó.

Nó là cái quái gì nhỉ? Có lẽ đây thực ra là một vũ khí thường thấy ở thủ đô và các thành phố lớn, và Berta chỉ đơn thuần là không biết nó. Dĩ nhiên, vũ khí phòng thân là cần thiết khi đi du hành, nhưng bất kể cái thứ chàng trai trẻ này sở hữu là gì, thì nó cũng để lại ấn tượng mạnh mẽ hơn một thanh kiếm đơn thuần.

Và thứ hai—cô gái. Cô nàng có vóc người ngắn ngủn và một gương mặt dễ thương, nhưng vì mái tóc bạc đã được cắt ngắn, nên dễ có thể nàng ta sẽ bị nhầm là con trai nếu nhìn từ góc độ không đúng. Có lẽ cô nàng sẽ để lại một ấn tương khác khi mở mắt ra và có một biểu hiện thực sự trên gương mặt.

Đồ vật kì lạ mà cô gái này có nằm ngay trước đôi mắt. Nó gồm hai tấm kính nhỏ được móc nối bằng bộ phận kim loại mỏng. Chúng được móc vào tai cô nàng và cân bằng trên mũi. Đây cũng là lần đầu tiên Berta thấy vật này. Suy nghĩ về điều đó, cô từng nghe một thương gia đến thị trấn nói về những thứ gọi là “kính mắt,” là dụng cụ được sử dụng để hiệu chỉnh thị lực của người mắt kém. Có lẽ đây chính là cái đó.

“X-Xin lỗi.” Berta thử nói với hai người họ. Cô cảm thấy tệ khi đánh thức họ dậy lúc đang mệt mỏi, nhưng nếu cô không làm gì đó, thì họ sẽ bị phát hiện trong nghi lễ, và Berta chẳng biết những con người không mời mà đến này sẽ phản ứng thế nào trước vị thổ thần. Các vị thần thì khó hiểu và thất thường. Liệu nó sẽ hài lòng chăng? Liệu nó sẽ nổi giận chăng? Cả hai đều có thể. Nhưng bất kể trường hợp nào, thì không nghi ngờ gì là sẽ có thêm nạn nhân ngoài Berta ra. Cô lên giọng và gọi lại lần nữa. “Xin lỗi. Hãy tỉnh dậy đi mà.”

Cả hai người họ đều không có dấu hiệu nhúc nhích. Đành phải coi như là không tránh được, Berta vươn tay về phía chàng trai trẻ để chạm vào má cậu. Nhưng ngay khi cô vừa chạm tới—có lẽ cậu đã cảm thấy gì đó, có lẽ chỉ là sự trùng hợp—mắt cậu bật mở và cậu nhìn lại cô.

“Ư…?” Không rõ là ai trong số họ đã phát ra âm thanh ngớ ngẩn ấy, nhưng một tiếng thở gấp vì ngạc nhiên vang vọng quanh thánh địa và khắp cả rừng núi vây quanh nó.

Các cư dân tham gia vào đoàn diễu hành theo nghi lễ đã trở lại thị trấn và gặp Fiona Schillings, thị trưởng thị trấn đương nhiệm.

“Mọi người, cảm ơn vì sự giúp đỡ.”

Những người mặc áo lễ màu xanh chàm đồng loạt cúi đầu, quay đi, và cất bước rời khỏi dinh thự. Trong lúc Fiona lặng lẽ nhìn họ tản ra khắp nơi trong thị trấn, cô không ngừng cuốn lọn tóc vàng dài quanh ngón tay mình. Đây là một thói quen vô ích của Fiona mỗi khi cô bực bội.

Đám rước hành lễ đã trở lại, nhưng bản thân nghi lễ thì vẫn chưa kết thúc. Chỉ là không còn chỗ cho con người nhúng tay vào nữa. Sự kiện chính, vẫn chưa đến, được tiến hành bởi thổ thần. Dĩ nhiên, “nghi lễ” chỉ là tên gọi. Còn thực tế, nó là một bữa đánh chén tàn bạo vô nhân đạo.

Đôi mắt xanh lá màu ngọc bích của Fiona nheo lại, và một nét sầu muộn đã làm méo mó khuôn mặt thon thả xinh xắn có tiếng tại học viện thủ đô của cô. “Chắc tôi có bày tỏ sự bất mãn của mình thì cũng chẳng giúp được gì,” cô nói.

“Nói gì thì nói, đó là một truyền thống đã được lưu truyền qua nhiều thế hệ,” người đàn ông đứng cạnh cô đáp.

Cô đang không thực tâm tìm kiếm câu trả lời, nhưng dù sao thì một câu cũng đã được đưa ra bởi người quản gia của gia đình Schillings. Không những ông ấy quản lí các công việc lặt vặt trong nhà, mà còn đảm nhận vai trò giúp đỡ Fiona, người đang lãnh chức vụ thị trưởng thị trấn thay cho người cha nằm liệt giường của mình. Người quản gia được sinh ra và lớn lên tại thị trấn này và dĩ nhiên là lớn tuổi hơn Fiona, thậm chí còn già hơn cả cha cô ấy. Đối với ông, nghi lễ này rất, rất chi là bình thường.

“Vì chẳng thể làm gì được nó cả,” Fiona nói

“Nhưng tất nhiên. Chẳng làm được gì cả,” người quản gia đáp lời và gật đầu sâu xuống, khuôn mặt mang vẻ tự mãn.

Người ta thường tạo ra lôgic để biện minh cho những thực tế vốn tồn tại. Ở đây tại Friedland, nghi lễ đơn giản là được chấp nhận. Sau một khoảng thời gian quá lâu để hợp lí hóa nó vào danh nghĩa vì “cái lợi lớn hơn,” không ai còn nghĩ đến việc đặt câu hỏi về nó nữa, bất kể cảm xúc của mọi người có nặng nề tới mức nào.

Fiona nghĩ rằng điều đó thật đáng sợ, những gì mà mọi người dần chấp nhận. Nếu cô đã lớn lên mà chưa từng rời khỏi thị trấn này—nếu cô đã không ra đi để học tập tại đế đô—thì hẳn cô đã chấp nhận nghi thức này mà không thắc mắc gì về nó. Dĩ nhiên, cô hiểu rằng chẳng thể làm gì được. Hoàng gia và tầng lớp quý tộc tại thủ đô không muốn dính líu đến chính trị vùng nhà quê. Miễn là thuế còn được đóng đều đặn, thì họ chẳng đoái hoài, bất kể điều gì có thể diễn ra ngoài đó. Cho dù cô có khiếu nại, thì họ sẽ chỉ đơn giản nói lại rằng họ “tôn trọng các phong tục địa phương,” và kiên quyết từ chối dây dưa vào.

“Chúng ta còn phải làm thế này bao lâu nữa…”

“Mãi mãi, thưa phu nhân,” người quản gia nói với nụ cười nhẹ.

Khi cậu tỉnh dậy… có một cô gái khỏa thân ngay bên cạnh cậu.

Thế còn hơn cả đủ để quấy rầy Yukinari.

“Hả…?”

Mà không, nhìn lại thì, cô ta không khỏa thân, nhưng… theo cách nào đó, thứ đang mặc trên người khiến cô ta trông không hợp mắt hơn gấp nhiều lần so với “không có gì cả”. Thứ cô ta đang mặc mỏng dính, quần áo giống kiểu đồ lót chỉ che đậy mấy vùng giới hạn. Nó được làm bằng vải lụa tơ tằm, và về cơ bản thì cậu có thể thấy làn da của cô ta xuyên qua nó. Chỉ thấy “những đường viền” thôi thì không sao. Nhưng nếu ai đó ở đủ gần, chắc họ có thể thấy rõ được cả lông tơ trên da cô ấy. Yukinari không thể không nghĩ rằng công khai trần trụi hoàn toàn thì sẽ bớt kích động con mắt đảo loạn xạ hơn là mặc những gì cô ta đang mặc.

Hơn nữa, cô ấy còn dễ thương. Có lẽ chỉ tầm mười sáu mười bảy, tóc cô dài và có màu nâu vàng nhạt, cùng khuôn mặt xinh xắn. Dù vậy, trông cô có vẻ mỏng manh, và dường như ánh sáng trong đôi mắt màu hổ phách mờ nhạt quá chừng. Việc hình dung ra cô lúc khóc thì dễ hơn nhiều so với lúc cười hay tức giận. Cô là kiểu con gái như thế. Vẻ ngoài của cô ấy thậm chí còn có thể cám dỗ người ta theo khuynh hướng độc ác và muốn trêu chọc cô không vì lí do gì cả. Tuy nhiên, Yukinari không hề có khuynh hướng như thế.

Dasa, đang ngủ kế bên cậu, cũng tỉnh giấc với một tiếng lầm bầm ngái ngủ. Chắc cô nàng đã nhận ra sự ngạc nhiên của Yukinari. Nàng tháo kính ra, dụi mắt cho tỉnh, đeo kính trở lại, và nhìn cô gái đang đứng cạnh hai người, bất động.

“Cô…” Đôi mắt Dasa nheo lại sau thấu kính.

“Có phải cô thuộc kiểu dạng núp lùm không?” Yukinari hỏi trước.

“Rõ đần…” Dasa đưa ra đánh giá cực kì lạnh lùng trước lời nhận xét thiển cận của Yukinari.

“Thế không phải à?”

“Cô ấy bị xích… kìa.”

“Ở nhỉ, thế mới nói…” Yukinari nghiêng đầu nói.

Trong thế giới quan đơn giản của Yukinari, nếu ai đó vừa bị xích lại vừa khỏa thân, thì hoặc là nô lệ hoặc là kẻ biến thái. Nhưng chắc chắn không đời nào lại có chuyện một nô lệ bị bỏ lại ở đài kỉ niệm đồ sộ bằng đá bơ vơ giữa núi thế này được. Ý nghĩa của nô lệ là bị ép phải làm việc. Thế nên khả năng duy nhất còn lại là—

“Ư-Ưm, làm ơn, hãy nhanh chóng rời khỏi đây…” Cô gái trong bộ đồ mỏng dính ngắt dòng suy nghĩ của Yukinari. Giọng nói nhút nhát như vẻ ngoài, và trong nó còn chứa đựng vẻ gấp rút và hoảng sợ không thể lẫn vào đâu được.

“Hai người không biết mình đang ở đâu sao? Đây là thánh địa của thổ thần đấy…!”

“Thổ thần?” Yukinari nheo mày.

“Có lẽ anh thì không sao, nhưng còn cô gái bên cạnh,” cô nói, nhìn Dasa, “cô ấy có thể bị nhầm là “vu nữ” mất—”

Cô còn chẳng thể nói hết câu. Tiếng ầm ầm phát ra từ bàn chân tiếp xúc với nền đất ẩm vang dội qua không khí trên đầu. Và rồi, không lâu sau đó—

“Ôooo… Ôooo…” Có phải tiếng, giống bùn sủi bọt ấy, là giọng nói không? “Có tận… hai… vật tế…”

Yukinari quay về phía phát ra giọng nói. Và ở đó—

“Một thổ thần,” Dasa lẩm bẩm.

Đang đứng đó là một con quái vật khổng lồ. Chẳng còn cách nào khác để miêu tả nữa. Kết cấu và hình dạng của các phần khác nhau trên cơ thể nó trông có vẻ quen thuộc, và nó được bao phủ bởi loại lông thường thấy ở thú bốn chân. Nhưng một sinh vật sáu chân thế này thì khác xa so với “động vật” đơn thuần.

Nói chính xác thì, nó có bốn chân có móng và hai chi nữa không rõ là tay hay chân mọc ra từ cơ thể. Ở cuối hai chi đó là “ngón tay” mỏng, dài trông như đang rủ xuống, và chúng đều chuyển động độc lập, không ngừng nghỉ, như chân của một con bọ. Trên thực tế, khuôn mặt nó có kết cấu giống như một con khỉ—mà không, con người chứ. Nó tròn, và đôi mắt, rồi mũi, miệng, thậm chí cả tai cũng tập trung lại gần nhau trong một vùng không có lông là chính giữa của nó. Giống như thể khuôn mặt người nhỏ bé đã được nhúng vào chính giữa một quả bóng thịt không có mặt.

Thế thứ này có phải con người không? Đúng là nó có mặt giống người, và nó có thể hiểu lẫn sử dụng ngôn ngữ con người nữa…

“HIẾN TẾ. HIẾN TẾ.”

“CON NHỎ. MUỐN. MUỐN.”

“ĂN CẢ THẰNG CON TRAI.”

Có những con quái dị khác đang bò quanh chân con lớn. Chúng tầm cỡ cho hay mèo, nhưng đầu thì lại giống người hơn là thú bốn chân, tạo nên một khung cảnh rùng rợn khủng khiếp.

“Bọn này là gì thế…?”

“Thổ thần và… người thân của nó,” Dasa trả lời.

“Thổ thần? Cô đang bảo tôi cái giống này là thần hả?”

“Ban đầu hầu hết đều là… động vật,” Dasa nói, mở túi ra và thò tay vào.

“Động vật, hử… À, ừm, cũng không hẳn là chúng ta sẽ phải chuyện trò nhiều.”

Yukinari nhìn quanh với vẻ mặt mệt mỏi. Có một con quái vật khủng bố—hay nên gọi nó là thần nhỉ?—mang tên “thổ thần,” và chừng mười người thân thần thánh của nó. Mỗi con đều đang giữ một vị trí để bao vây công trình cự thạch mà cô gái gọi là “thánh địa,” và nhìn ba người cùng lúc. Khuôn mặt của đám người thân giống loài người. Tuy nhiên, chẳng thể cảm nhận được hình thức trí thông minh nào cao hơn trong biểu hiện của chúng, và dớt dãi thì đang nhỏ ra từ mấy cái miệng khép hờ. Ít ra thì thổ thần, có thể được gọi là trùm của chúng, cũng không có vẻ mặt uể oải như thế.

Dù sao thì, Yukinari, Dasa, và Berta cũng đang ở trong một tình cảnh ngặt nghèo. Không những họ bị bao vây, mà kẻ địch còn là những con quái dị khủng khiếp. Dù đám người thân có thân hình giống chó lớn, thì chỉ nhìn thôi cũng có có thể rõ rằng một con người không thể tự mình xử lí chúng. Nếu rơi vào trận đấu tay đôi một mất một còn, thì một người thậm chí còn chẳng phải đối thủ của đám chó bình thường cỡ vừa. Những con chó sẽ đồng loạt nhảy vào người ấy, và người ấy sẽ bị cắn xé đến chết, bất lực không cản nổi chúng.

“CON NHỎ! ĂN!” Tiến bước trước những con còn lại, một con người thân bắt đầu tiếp cận. Có vẻ nó đã xác định rằng Dasa có thể là mồi của nó và đang tiến tới, hy vọng cắm được răng vào cổ cô nàng. Cô gái mặc đồ mỏng tuy thuộc về thổ thần, nhưng lại trông giống hai người kia, chưa lên kế hoạch gì cả, lần đầu đến, lần đầu phục vụ.

“ĂN! ĂN!” Nghe giống đang sủa hơn là đang nói, con người thân nhảy về phía Dasa. Quai hàm trên khuôn mặt rất giống người há ra, và răng nanh của nó, rõ ràng là của loài động vật, đớp lấy để đoạt mạng trong khi nước dãi dớt ra thành vệt. Và rồi—

Tiếng ồn đinh tai nhức óc—một vụ nổ âm thanh dữ dội, tiếng nói bất đồng quan điểm tại bữa yến tiệc điên loạn này. Con người thân vừa nhảy về phía Dasa oằn mình giữa không trung và ngã sang bên cạnh Dasa trong tư thế kì lạ. Nhưng chỉ có thế. Con người thân không đứng dậy trở lại mà cứ nằm ở đó, cơ thể nó đang co giật và giãy giụa. Rõ ràng là nó sắp chết. Thổ thần và những con người thân còn lại đứng hình vì sốc. Có vẻ chúng đủ thông minh để hiểu rằng đây là một tình huống khác thường.

“Yuki,” Dasa nói, nhìn cậu. “Em sắp… dùng nó đấy.”

“Thì đã dùng rồi còn gì… Ếê, mà sao cũng được. Cũng không hẳn là còn lựa chọn nào khác.” Yukinari gật đầu về phía cô nàng. Nhận được sự cho phép, Dasa ngắm lại vũ khí, lần này với tư thế chuẩn. Mới nãy là một cú rút súng nhanh, nên cô nàng đã không có đủ thời gian để ngắm.

“Ớt Đỏ.”

Dasa thì thầm tên vũ khí trong lúc thủ nó ở thế sẵn sàng. Đó là một khẩu súng lục ổ quay màu đen cỡ lớn có gắn ống ngắm và giá hai chân, rõ là quá thừa và không phù hợp với bàn tay của một thiếu nữ.

“Hử…?” Berta trân trân nhìn cảnh tượng trước mặt.

Đã có một tiếng chói tai rền rĩ như thể chớp vừa đánh xuống rất gần, và khoảnh khắc kế tiếp, một con người thân đang lăn lộn trên nền đất, túa máu. Xét đến cách mà nó đang co giật với cái lưỡi thè ra và con ngươi lộn ngược lên đầu, thì nó chẳng thể đứng nổi nữa. Chắc nó đã lãnh phải một vết thương chí mạng.

Nhưng làm thế nào? Đối với mỗi người thì ngay cả một con người thân cũng đã là thách thức không tưởng. Làm thế nào cô gái rõ ràng trông nhỏ người hơn cả Berta, chỉ với một đòn mà…

“Giết… được… nó…?” Berta vừa nói vừa thở hắt ra, nhìn con người thân đã không còn cử động nữa.

Vật màu đen mà cô nàng đang cầm rất có thể là một vũ khí. Nhưng nó không phải kiếm, cũng không phải giáo mác. Chẳng phải cung, hay gậy gộc. Đó là thứ Berta chưa bao giờ thấy—mà thực ra là chưa bao giờ nghe nói tới. Dù sao thì… cô không biết cách nó hoạt động, nhưng có thể nó là một vũ khí bắn ra sấm chớp hay gì đó chăng?

“CHẾT…”

“CHẾT?”

“CHẾT!”

“CHẾT!”

Berta có thể nói rằng điều gì đó như kiểu sự bực bội đang lan tỏa trong đám người thân. Mặc dù là đầy tớ của một vị thần, nhưng bản thân chúng không phải thần và vẫn chết được. Không như thổ thần, việc một người đơn lẻ quật ngã được chúng không phải là điều bất khả—nếu người ấy sở hữu sức mạnh vô song của một vũ khí. Berta hiểu được lôgic này, nhưng ngay cả thế…

“…Ý nghĩa… của điều này… là gì… Các ngươi… chống lại ta… thần… bảo hộ… của mảnh đất… này…”

Nghe như tiếng bùn sủi bọt. Mà không—đó là giọng của thổ thần, lời lẽ của một vị thần đang sục sôi vì giận. Có lẽ điều đó cũng đã ảnh hưởng đến cả đám người thân. Chúng đang cào xé mặt đất bằng cả bốn chân, lẩm bẩm mấy từ như “GIẾT,” “ĐÁNH,” “LỘT,” và “XÉ.” Trông như thể chúng sẽ đồng loạt tấn công bất cứ lúc nào. Có lẽ đôi chân của một người bình thường chắc đã nhũn cả ra, hoặc có khi người ấy đã tự làm ướt quần mình vì sợ. Vậy mà cậu chàng này lại—

“Có phải… ngươi… là á thần… đang tìm cách… chiếm ngôi… thổ thần của ta…? Hay ngươi là… con người… xuẩn ngốc… nhu nhược… đến mức… không biết cả… quy luật… tạo hóa…?”

“Thần cơ à? Ha… Thần, hử,” Cậu chàng trả lời với nụ cười nhạt. Đó không phải là thùng rỗng kêu to. Hầu như chẳng hề có sự căng thẳng trong nét mặt hay giọng cậu ấy. Thực ra, trông cậu như đang đứng ở tư thế thoải mái. Dấu hiệu duy nhất cho thấy đây là một “lập trường” vững chắc đó là từ lúc nào đó, cậu đã đặt tay phải lên vũ khí của mình, thanh kiếm dài với cái khung cồng kềnh kì lạ ấy. “Ghét phải làm nổ cái bong bóng của mày ghê, cơ mà cả hai đều không phải.”

“Ngươi…”

“Thổ thần, hử… Ra vậy.” Chậm rãi, cậu chàng rút thanh kiếm và phóng thích nó khỏi vỏ đựng. Cậu lặng lẽ quét lưỡi kiếm đen tuyền trong không trung, rồi chĩa nó về phía thổ thần. “Mày nghĩ chỉ vì mày có tí não mà đòi làm hẳn cứt thơm được sao? Mày chỉ là một con vật mà thôi. Tao sẽ cắt nhỏ mày ra, nấu mày lên, và ăn mày cho bữa tối.”

Lời xúc phạm này thể hiện một thái độ không sợ thần thánh vượt xa cả sự bất kính. Cơ mà cậu ta lấy lòng tự tin đó ở đâu ra mới được cơ chứ? Chính vũ khí của cô gái đã giết con người thân, và quan trọng hơn cả, việc một người quật ngã được thực thể mang tên “thổ thần” là không thể; có giết được một con người thân thì cũng vô nghĩa.

Cả kiếm lẫn tên đều không có tác dụng với hầu hết chúng. Lông chúng cứng hơn cả mũ sắt, lại còn linh hoạt. Vũ khí của con người, bất kể là lưỡi dao hay dụng cụ cùn, sẽ chẳng bao giờ có thể chạm tới lớp thịt đằng sau nó. Chưa kể đến sức mạnh tuyệt đối chứa trong những đòn tấn công từ cơ thể khủng bố của chúng. Chúng có thể dễ dàng giết người chỉ với một cú đấm. Trên hết là—

“Ngay cả loài người các ngươi… cũng chỉ là… những con khỉ… có não…” Vị thổ thần nhe răng và mỉm cười. Thích đáng với tuyên bố của nó về việc là thần, thổ thần có trí thông minh sánh bằng loài người; chúng khác động vật. Người ta nói rằng các mưu mô thủ đoạn không có tác dụng với chúng, và làm một điều tương tự thế, thực chất, thường gây phản tác dụng. Đó là lí do tại sao con người đã quyết định đi đến một sự bằng lòng hơn là đối đầu với thổ thần, thờ phụng và dâng cho chúng những vật hiến tế để đổi lấy sức mạnh của chúng.

“Ừ. Có lẽ mày đúng đấy!” Cậu chàng, không hề có biểu hiện sợ sệt, vẫn đang chĩa thanh kiếm đầy thách thức của mình vào thẳng mặt thổ thần. Chẳng có điều gì tốt đẹp đến với một người thách thức thổ thần cả. Ít nhất thì, đó là điều Berta được dạy. Đó là lẽ thường, hiểu biết thông thường mà tất cả mọi người sống suốt ở đây đều biết —ấy là quan niệm cơ bản, hằn sâu vào khối óc, chi phối mọi quyết định của họ.

“C-Chạy đi!” Berta hét lên, nhưng đã quá muộn. Giọng cô bị át đi bởi tiếng gầm của thổ thần khi nó tấn công cậu chàng.

Dasa tựa lưng vào cái cột gần đó, đảm bảo một nơi tạm thời để đứng. Nàng kéo mũ trùm đầu, lấy “tai” ra khỏi túi, và gắn nó vào dải buộc đầu.

Thực chất Yukinari là người đã làm ra chúng, nhưng thiết kế thì lại là của cô nàng và dựa trên chính kiến thức và kinh nghiệm của nàng ấy. Đó là một vật phẩm chiến đấu rất riêng của nàng. Cấu trúc không quá phức tạp: chúng chỉ là những cái micrô lớn, hình tam giác parabol.

Những chiếc tai này, có vài lần khu vực của riêng Dasa, thu nhặt thanh âm xung quanh một cách hiệu quả và tiếp vào tai cô nàng mà không bỏ qua dù là chi tiết nhỏ nhặt nhất. Chúng đã được tạo ra dựa trên hình dạng và cấu trúc của tai động vật. Và do đó—

“ĂN!” Một con người thân bay tới chỗ Dasa.

“…Đủ rồi.” Gần như chẳng hề nhìn, Dasa chĩa Ớt Đỏ về phía nó—cò súng đã lên sẵn—và bóp cò.

Một viên .44 Magnum nổ ra từ nòng súng. Dasa có sức nắm chắc nhờ bộ giật bù trừ được gắn vào họng súng và trọng lượng của ống ngắm với giá hai chân, và dù thế nào thì khẩu súng cũng vừa mới giật. Từ khóe mắt của mình, nàng nhìn con người thân đổ sập và quằn quại trên nền đất, rồi dùng ngón cái lên cò súng lần nữa, chuẩn bị cho phát kế tiếp.

“X-Xin lỗi…!” cô gái cúng thần bên cạnh lên tiếng.

“Im… lặng. Đừng… di chuyển.” Dasa chĩa Ớt Đỏ thẳng về phía trước. Chính xác tại điểm đó có một con người thân sắp nhảy chéo về phía Yukinari từ sau lưng cậu.

Nàng bắn không chút do dự. Phạm vi gần, nên không cần xài đến ống ngắm. Được nạp vào lúc đầu cho mục đích săn bắn, viên đạn và điểm mạnh của nó, ghăm chặt vào chân sau của con người thân—và xé toạc nó.

“Yuki, cứ tập trung vào địch thủ… của anh đi.”

“Biết rồi. Cảm ơn!” Yukinari quay mặt trở lại phía thổ thần.

Trong lúc dõi theo Yukinari, Dasa dùng ba viên .44 Mag để giết thêm ba con người thân. Tính cả con mới giết ban đầu, thì tổng là năm con. Vẫn chưa đến một nửa, nhưng ít nhất thì họ đã giảm được số lượng đám người thân đi một phần ba.

Có lẽ lúc này nhận ra rằng một vài trong số chúng đã nhanh chóng bị giết lần lượt từng con một, chuyển động của đám người thân trở nên do dự và trì trệ. Trong khi đó, Dasa mở cổng nạp của Ớt Đỏ, loại bỏ các vỏ đạn rỗng, và bắt đầu nạp lại nó một cách máy móc với nhiều vỏ đạn .44 Magnum hơn vừa lấy ra từ túi trong. Suốt lúc ấy, mắt Dasa ngắm vào đám người thân và vị thổ thần điều khiển chúng.

“Vậy ra rút cục thì… chúng là một phần… của thổ thần…”

Cứ mỗi lần một con trong đám người thân bị bắn và giết, người thổ thân lại khẽ rung rẩy. Dasa nhớ lại lời chị gái Jirina đã từng nói. Những thực thể mang tên “thổ thần,” hay đôi khi là “á thần,” này khởi đầu từ loài động vật bình thường. Người ta nói rằng khi một nhóm các con có kích thước nhất định tập trung quanh một con già và chúng đạt được mối liên kết tinh thần tương hỗ, thì chúng sẽ có được trí thông mình và đặc tính của một vị thần. Các vị thần nhận được sức mạnh thông qua việc được thờ phụng bởi những kẻ thấp kém hơn họ. Nói cách khác—

“Càng giết nhiều người thân… thì càng giảm thiểu được sức mạnh của chính bản thân… thổ thần,” Dasa lẩm bẩm, và ngắm Ớt Đỏ đã nạp đầy đạn, không về phía thổ thần, mà về phía đám người thân đang vây quanh ba người họ.

Cánh tay rắn chắc của thổ thần vươn về phía Yukinari, nhằm xé toạc cậu. Yukinari né, đồng thời chém vào lòng bàn tay thổ thần. Lát cắt mang lại cảm giác kì quặc, như thể đang cắt vào mặt đất. Cảm nhận được lưỡi kiếm của mình đang trượt qua lông của thổ thần, mặt Yukinari khẽ nhăn mày lại.

“Vãi, thật hả?”

“NUOOARRR!” Thổ thần phớt lờ đòn công kích của Yukinari và tiếp tục cố nắm lấy cậu. Nếu bị bắt bởi thứ này thì đến cả Yukinari cũng sẽ gặp phải rắc rối nghiêm trọng. Kích cỡ và cơ bắp khiến nó trông như có thể dễ dàng tách một người ra làm hai. Việc trước kia nó từng là một con vật không khó để tin được. Nó mạnh thật chứ chẳng đùa. Thế nhưng…

“Hê!” Yukinari len giữa hai cây cột đá, sang trái rồi sang phải, không ngừng né cánh tay của thổ thần. Chính bản thân công trình thánh địa đã gây cản trở cho thổ thần, khiến cho Yukinari nhỏ người—tất nhiên, nhỏ nếu so với thổ thần—gần như không thể bị đuổi kịp. Dù sao thì cánh tay của nó vẫn cứ khăng khăng vươn ra chỗ cậu bằng được. Yukinari đánh bật chúng ra bằng Durandall. Những cánh tay đã vươn ra hết cỡ không thể giữ nổi dù chỉ phân nửa sức mạnh bình thường của chúng.

“GRHH… NGƯƠI…” Thổ thần gầm gừ đầy tức tối.

Yukinari nhìn nó, buồn cười. “Sao thế, súc vật? Quên mất cách nối câu rồi à?”

Cậu nheo mắt liếc qua nhìn đám người thân đang bò trên nền đất. Dasa đã giết được mười con. Ngoại trừ bản thân thổ thần, thì hiện giờ chỉ còn lại khoảng ba con. Đây là lần đầu tiên Yukinari tận mắt thấy một thổ thần, nhưng cậu biết nó là loại sinh vật gì. Cậu đã có được kiến thức đó từ trước. Đại khái cậu cũng quen thuộc với giả thuyết được các nhà giả kim đưa ra về nơi bắt nguồn trí thông minh và đặc trưng của thổ thần.

“Cảm thấy thế nào khi mất đi vài phần não ngoài hở? Lú cmn lẫn rồi ha?”

“RAARRR!!” Thổ thần tức tối gầm lên trước lời kích bác của Yukinari. Có vẻ là, cậu đã nói chính xác.

Có lẽ thổ thần đã bắt đầu mất kiên nhẫn hoặc đánh mất bản thân trong cơn giận. Nó phá nát một khu của thánh địa bằng vũ lực, đẩy phiến đá mỏng và lớn qua một bên, và tiến lại gần Yukinari. Nó cắm chặt hai chân sau xuống nền đất, và bằng bốn chân còn lại—hay là tay nhỉ?—con quái vật khủng khiếp vồ bắt Yukinari từ mọi phía.

Hai “chân trước,” cái nào trông cũng có thể nghiền nát người, và hai “cánh tay” chắc nịch mỏng hơn vây quanh Yukinari từ cả bốn hướng. Thổ thần gắp cậu bằng cả bốn “chi” ấy, và đưa cậu lên trước mặt.

“…MẸ KIẾP… NGƯƠI…!” Quai hàm trên khuôn mặt khổng lồ, giống người của nó há ra như để nuốt chửng cậu, phơi ra răng nanh và lưỡi.

“Mày đúng là đầu to óc bằng quả nho đấy con ạ,” Yukinari buột miệng nói, ngay cả khi chỉ còn cách khúc bị cắn bay đầu vài khắc nữa. Ánh mắt cậu dán chặt vào trong mồm thổ thần—vào chỗ sâu nhất, nơi nối liền với cuống họng. Dĩ nhiên, đầu lưỡi kiếm của cậu không với tới. Đỉnh thanh kiếm chỉ khía nổi một vết nhỏ trên cái lưỡi tương đối mềm của thổ thần. Như thế thì chẳng bao giờ có cửa nào mà đòi giết được thổ thần cả. Tuy nhiên…

“Sống hộ tao cái. Đờ mờ,” Yukinari nói, và bóp cò. Tiếng nổ phát ra từ “khung” của Durandall—thực chất là một khẩu súng trường ngắn nòng, nạp đạn bằng đòn bẩy, một khẩu Winchester M92 Randall. Phát đạn nổ trúng vào đầu con chó hoang chẳng lệch đi li nào. Và ngay sau đó, lõi của con quái tóe máu đỏ và thịt ra bốn phương tám hướng, giống như một bông hoa nở rộ.

Mặt đất rung chuyển dữ dội khi thân hình đồ sộ của thổ thần va xuống nền đất. Bởi sức nặng của cơ thể nó, đất ẩm lún xuống là điều hoàn toàn đoán trước được. Tuy nhiên—

Berta thở gấp. Thổ thần… đã nát như cám. Thân thể đồ sộ của nó, từng vận hành như một vị thần, vỡ vụn ra thành “các phần” chia cắt như một khối tháp đổ sập. Ngay sau đó, các “phần” ấy, trông giống như mấy miếng thịt, thay đổi hình dạng lần nữa, lần này thành những con động vật nhỏ—lại nói, chỉ nhỏ nếu so với thổ thần. Một con chó hoang. Một con lửng. Một con chuột đồng. Một con chồn. Một số xác động vật kiểu như vậy đang nằm la liệt trên nền đất. Berta nhận ra rằng đây là danh tính thực của thổ thần—các mạch máu đã tạo nên “cơ thể thần thánh” của nó. Nói cách khác…

“Hai người đã quật ngã…”

Một vị thần? Tự mình họ? Chỉ hai người—mà không, nói thật thì, cậu ấy đã tự mình giết nó…

Berta nhìn quanh, cảm giác như vừa chứng kiến một điều không tưởng. Đám người thân đã trở lại thành những con chó hoang và con lửng như chúng vốn dĩ là thế. Các nét đến từ linh hồn thần thánh của thổ thần đã biến mất.

“Những người đó—người đó—”

Cuối cùng, Berta nhìn chằm chằm cậu chàng đã quật ngã một vị thần. Phải chăng thứ vũ khí đó đã khiến cho “tội giết thần” này khả thi? Nhưng bất kể họ có vũ khí gì đi chăng nữa, thì liệu một sinh vật phàm trần, một con người cô độc, có thể giết nổi thần hay không? Không phải là một hành động… mà chỉ đơn giản là phép màu chăng? Nàng nhớ lại những lời thổ thần đã nói trước khi nó ngã xuống.

—Ngay cả loài người các ngươi… cũng chỉ là… những con khỉ… có não…

Hiểu theo nghĩa rộng thì, khỉ cũng là động vật. Và không nhất thiết là con người phải ở vào một phạm trù hoàn toàn khác biệt của riêng mình. Nếu cả con người, cũng là động vật… thì có lẽ quy luật tương tự cũng sẽ áp dụng được với loài người chăng?

Nói ngắn gọn thì… “Liệu người đó— mà không, liệu đó có phải là một con người không…?”

Ở phía bên kia ánh nhìn đầy sợ sệt của Berta, cậu chàng tra thanh kiếm của mình lại vào vỏ và tình cờ kìm một cái ngáp.

“Cậu ta đã giết thổ thần…?”

Ngay cả khi đã nói lớn ra những lời đó, các vị linh mục vẫn không thể tin nổi. Họ đã được giao cho nhiệm vụ xác nhận, từ bục quan sát cách không xa so với thánh địa, rằng “vu nữ” tế thần đã làm đúng phận sự của mình. Cụ thể thì, công việc thiêng liêng của họ là chứng kiến toàn bộ các sự kiện, cho tới khi thổ thần và thân nhân của ngài ăn tươi nuốt sống thiếu nữ hiến tế và rời đi vẻ bằng lòng, và lưu giữ cả lại vào bản ghi chép. Cơ mà…

“Chàng trai đó là ai—mà không—là cái gì…?”

“Vũ khí, có phải vũ khí đó là vấn đề không?”

“Nhưng khó có thể tưởng tượng nổi…”

Sự kinh ngạc của họ len lỏi vào trong giọng nói, các vị linh mục nhìn nhau. Họ đã được dạy rằng sự cao cả lớn lao nhất đó là khép chặt tâm trí, dù xấu hay tốt, và đảm bảo rằng quá trình đã định trước—nghi lễ—được lặp lại. Đối với họ, việc tiếp tục theo gương của những người đã đến trước họ mang lại sự ổn định, trị an, và sự thật, và chính là định nghĩa của đức tin. Và như vậy, họ cực kì yếu khi đối mặt với một tình huống không mong đợi như thế này.

“Nghiêm trọng rồi đây. Rất nghiêm trọng rồi đây.”

“Chúng ta cần trở về thị trấn ngay lập tức và báo cáo lại điều này.”

Họ nói với nhau bằng giọng thì thầm và nín nặng, mặt họ dí sát lại gần nhau—mặc dù nơi đây đã được lựa chọn một cách đặc biệt vì khoảng cách của nó so với lễ tế. và không đời nào có chuyện giọng họ vang tới đó được. Rồi, họ nhanh chóng trèo xuống khỏi bục quan sát và chạy gấp về thị trấn.

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật
Lượt đọc 5

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.