Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

SAU KHI THẦN QUA ĐỜI

Phiên bản Dịch · 19020 chữ

CHƯƠNG MỘT: SAU KHI THẦN QUA ĐỜI

“Soạt—!”

Một lưỡi kiếm sắc lẻm chém vào không trung. Với hiệu ứng để lại, nó cũng có thể là một lưỡi kiếm thực sự. Mấy bụi cây nhỏ trên đường bay của nó vừa bị chạm đã tan biến vào không khí, như thể chúng bị cắt bằng lưỡi hái khổng lồ.

Nó sắc, lớn, và mạnh mẽ. Lỡ nó trúng phải một người thường, có khi cánh tay hoặc chân, hoặc đầu của họ – hay bất cứ thứ gì – đều đã lìa khỏi xác. Nó thậm chí còn chẳng cố gắng cắt – mà chỉ nắm. Thậm chí chỉ vậy cũng dễ dàng giết chết người khác. Đây không phải là sức mạnh hủy diệt thông thường.

Chọc giận một sinh vật như vậy chẳng khác nào tự thân nạp mạng. Nó có thể giết bất cứ con người nào chỉ bằng một cú gẩy; sức mạnh cường bạo của nó đã đến mức độ phân định sống và chết.

Và đó là lí do tại sao, với sự kính nể và run sợ, những sinh vật như vậy được tôn là “thần”.

“Fe…!”

Yukinari tặc lưỡi trong lúc cúi vừa đủ thấp để né đi nanh vuốt.

“Cũng nhanh ra phết, nhỉ…!”

Đúng thời điểm thích hợp nhất theo như tự đánh giá, cậu tiến về phía trước – và á thần, nãy giờ đang chờ đợi, tung đòn. Đây không thể là ngẫu nhiên. Rõ ràng nó có chủ đích.

Điều này có tên là “phản đòn”. Không đơn giản nghĩa là đòn tấn công khó tránh khỏi của đối phương; Đà của Yukinari được dùng để chống lại chính cậu. Nếu đã né chỉ chậm hơn một phần giây thôi, thì có lẽ cậu đã phải nói lời tạm biệt với nửa thân trên của mình.

Chúng được gọi là “á thần”: những sinh vật mong ước được trở thành thổ thần địa phương, Và lại nói, người ta có thể nhấn mạnh rằng chúng là á thần – mà chẳng có gì thần thánh hết, theo quan điểm của Yukinari. Chúng chưa thực sự trở thành thần; mà chỉ đang chơi trò đóng giả.

Nhưng sức mạnh trong thân hình quái gở ấy đã gần đạt tới mức thần thánh, Như đòn tấn công vừa rồi cho thấy, á thần có trí thông minh gần bằng với con người và không ngại sử dụng nó. Một á thần biết cách sử dụng sức mạnh của mình, và một con người đơn độc sẽ chẳng bao giờ mơ đến chuyện đọ sức cùng với nó. Kết cục không tránh khỏi đó là bị áp đảo và tiêu diệt.

“Con quái vật gớm ghiếc kia!”

Tuy vậy khi Yukinari hét, trên mặt cậu không hề có nét sợ hãi. Cậu biết thần không toàn năng, và chúng không bất khả chiến bại. Cậu không phải quỳ gối trước chúng và cầu xin lòng nhân từ. Cậu là kẻ địch của chúng, một kẻ sở hữu sức mạnh gần bằng với chúng,

Á thần rống lên như đáp lời: “Gryyyaaaa!” Âm thanh dội lại từ vách đá hai bên.

Yukinari và á thần đang ở một thung lũng. Hai bên trái phải đều là vách đá, những lớp đá dầy bao bọc khiến người ta chóng mặt. Không hẳn là một thung lũng rất sâu, nhưng đá thì cứng; có một vài chỗ trốn và không có nơi nào để chạy.

Yikinari lại tiến về phía trước. Đồng thời, cậu vung thứ gì đó qua bên phải – một nỗ lực để cắt đầu kẻ thù, nhưng giống như móng vuốt của á thần, nó chỉ va vào không khí. Á thần đã né được với một bước lùi nhanh nhẹn.

“Grr!” Yukinari lại tặc lưỡi và dấn người lên trước. Lần này cậu mở rộng tay và thân mình rồi quét vũ khí yêu dấu của mình – Durandall – lên thành một đường bán nguyệt. Nhưng đòn quét một lần nữa lại lệch ra khỏi đích.

Cậu không thể chạm vào thứ đó. Á thần bắt đầu bay lên cao, trong lúc không ngừng trượt lùi lại.

“Xuống đây mau, con gà nướng ngoại cỡ!”

“Grrryyyaaaa!” Á thần dang cách đầy khiêu khích trong lúc Yukinari lườm nó bằng ánh mắt sắc như dao cạo.

Á thần này là một loài chim, nếu có thể gọi như vậy. Yukinari biết đó là cách duy nhất để miêu tả một sinh vật có cánh với lông và bay lềnh bềnh trong không khí.

Nhưng cơ thể nó thì lại khác xa so với hình ảnh được gợi lên từ từ “chim”. Phải nói là một phiên bản quái vật của loài chim mới đúng. Nó có bốn cánh khổng lồ trên lưng, vuốt dài đủ quắp một con bò hay ngựa, chứ đừng nói là người, và cộng thêm mỏ của nó, còn có cả nanh và sừng.

Từ vài mét trên không trung, á thần nấc đầu một cái.

“G—à nư—ớng. đÓ lÀ gÌ?”

Khả năng nói cho thấy trí thông minh tiệm cận với loài người. Cổ và họng của nó cấu tạo khác so với người, khiến giọng bị rít và khó nghe, nhưng Yukinari có thể hiểu một cách hoàn hảo.

“Đó là đồ để bọn ta ăn tối đó,” cậu nói. “Và ngươi nên biết là bọn ta sẽ không bao giờ để nó ăn mình đâu! Chim là để dành cho mục đích đó đấy.” Cậu thủ Durandall cho đòn kế tiếp. “Nên hãy làm con gà ngoan và xuống đây đi. Ta sẽ vặt lông ngươi ra và cho vào nồi nấu liền!”

“nóI Cái gÌ lẠ thẾ. nGưỜi ăN đỘng VậT, thẦn ăN nGưỜi. đÓ là lUẬt tỰ nhIên.”

Tiếng gryaaah! gớm ghiếc kèm theo lời của nó chắc là tiếng cười.

“Cứ làm như đúng rồi ấy. Ta nghĩ họ đã thay đổi định nghĩa của luật tự nhiên kể từ lần cuối người tra nó rồi.”

“bẢn thÂn nGưƠi xEm rA khÔng bIết cOn NGƯỜI lÀ đỂ lÀm gÌ. nGươI nGhĨ ăN thẦn sAO?”

Sinh vật bay đến nơi còn cao hơn. Lên và lên, tới một độ cao cường đại – và rồi qua vòng. Nó rơi – không, đâm xuống – nhanh đến mức rít lên, dù chính không khí cũng đang khóc thét.

Yukinari bật nhảy về phía trước để tránh đòn lao cắm xuống, nhưng chỉ vừa lúc cậu nghĩ á thần sẽ đâm xuống đất, nó mở rộng cách, bật nảy vào mặt đá để đổi hướng. Thần hình khủng bố của nó trượt trong không khí, đuổi theo cậu.

Vuốt của nó lại chém. Yukinari cúi phát nữa để né – nhưng cậu đã phán đoán sai chuyển động của nó một li cực nhỏ, và móng vuốt xé toạc lưng chiếc jacket lông đen của cậu, để lại một vết rách dài.

“Gryaaa! Gryyaa! nGưƠi vÔ vỌng rỒi!” Á thần hoan hỉ trong lúc bắt đầu nâng độ cao lên một lần nữa. “cỨ vung KIẾM đi, khÔng thỂ chẠm ĐượC tA ĐâU. hAy ngƯơi sẼ thỬ Ném nÓ? vỀ lÍ, nGƯƠI kẺ bÒ dƯớI mẶt đẤt ChỈ là đỒ chƠi cHo tA, kẺ nGự trÊn TRời mÀ thÔI!”

Yukinari lẩm nhẩm và điều chỉnh tay nắm trên thanh kiếm mà á thần đang nói tới – Durandall – và nhìn lên trời vẻ bực dọc. Á thần có thể sà xuống để tấn công cậu, nhưng kiếm của cậu không thể chạm tới nơi của nó trên trời. Cậu có thể cố bắt nó trong lúc nó tấn công, nhưng tất nhiên, điều đó tức là á thần sẽ luôn nắm thế chủ động.

“Giờ mình sẽ làm gì đây ta…”

“đà sÁng mẮt rA chƯa? yÊn vỊ, và Để bỊ Ăn đi. Định mỆnh cỦa ngƯƠi là lÀm mỒi chO tA.”

Và rồi á thần giống chim thực hiện một cú sà.

“Pfft,” Yukinari nói. “Ta chỉ đang đùa giỡn thôi mà.”

Tiếng crắc vang lên, một vụ ầm như sấm. Liền đó, á thần đang đà lao xuống văng mạnh qua một bên.

“cÁi – gÌ –?!”

Nó nhìn Yukinari – vũ khí cậu cầm. Một làn khói bay ra từ một mảnh kì lạ gắn trên thanh kiếm: nòng kim loại vừa gây ra tiếng ồn lúc nãy.

Một khẩu súng.

Dưới con mắt thường, lưỡi kiếm Durandall của Yukinari có lẽ trông chẳng khác nào một thanh kiếm dài được rèn một cách thô thiển. Nhưng thực tế, nó bao gồm cả Randall – một khẩu súng trường đòn bẩy cưa nòng Winchester M-92 – trong một thứ tương tự như kiếm súng.

“Grrya…”

Viên đạn .44 Magnum từ vũ khí của Yukinari đã găm sâu vào đầu á thần. Lần này, á thần mới là kẻ hứng chịu một đòn phản công. Phản của nó tuy có vẻ nhạy bén, nhưng suy cho cùng cũng không thể né một viên bi sắt bay nhanh hơn vận tốc của âm thanh.

“Grrrrya!”

Dù máu đang phọt ra từ đầu, á thần vẫn tiếp tục lết về phía Yukinari như thể hy vọng sẽ vồ được cậu. Những lớp lông san sát có vẻ đã hoạt động như một tấm chống đạn tự nhiên, giảm thiểu lực bắn đi phần nào. Máu cũng đã sớm ngừng chảy. Đủ thông minh để tự xưng là thần, sinh vật dường như hiểu rằng nó không thể để mình chảy máu, mặc dù cách mà nó cầm máu, Yukinari không rõ.

“Lẽ ra nên dùng đạn đầu thép, thay vì rỗng ruột,” cậu lẩm bẩm, quay lưng lại trong lúc tải đòn bẩy, đặt viên đạn kế tiếp vào ổ. Và rồi…

“—Dasa.”

“…Mm.”

Phát tiếp theo không đến từ Durandall.

Cô nàng tới đó từ khi nào vậy? Đằng sau Yukirani, trên đỉnh một hòn đá to rộng, một cô gái đang cầm khẩu súng bề ngoài thô cộc.

Trông cô khá xinh xắn: mái tóc bạc tỉa gọn gàng đến ngang vai, đôi mắt xanh lơ hấp háy sau cặp kính. Cặp má phính trắng mịn tựa gốm sứ Bát Tràng; cô nàng xinh đẹp như một con búp bê kì công được làm ra mang trong mình hơi thở sự sống.

Dasa Urban. Với Yukinari, cô giống như người chị em, vị cứu tinh – một cộng sự.

Có một khoảng lặng. Khẩu súng Dasa xài, “Ớt Đỏ,” là một khẩu súng lục ổ quay với hai đầu và ống ngắm giúp bẳn tỉa. Cũng dùng một loại đạn .44-caliber Magnum như Durandall. Nó thuộc về một cấu trúc với tên gọi “đơn hành động,” một phong cách tương đối cũ từ thời miền Tây vừa bị chiếm đóng.

Thêm một tiếng rống. Nữa và nữa.

“Grryaaa?!”

Á thần rít lên. Những vết loang đỏ dọc khắp người nó, cho thấy những nơi trúng đạn. Mấy phát liền, chỉ trong nháy mắt. Phẩy. Thay vì bóp cò rồi kéo cò thành hai bước tách biệt, tay phải cố định súng và giữ cò, đồng thời tay trái nhanh chóng dập búa. Động tác mau lẹ của tay trái giống như một người đang phẩy quạt, nên mới có tên như vậy. Kĩ thuật đặc biệt chỉ dành cho súng lục ổ quay, và một tay súng giàu kinh nghiệm có thể xả ra sáu viên đạn một lúc nhanh tới mức hiệu ứng chẳng khác nào một khẩu súng máy; âm thanh của từng phát trở thành một tiếng rống liên hồi. Dasa, tuy nhiên, vẫn chưa đạt tới đẳng cấp đó.

Á thần bắt đầu lắp bắp, có lẽ vì sốc. “cÁi Cái cáI tHHứ vŨ Vũ VŨ kHyyya!

Cho dù da hay lông của nó có cứng như áo chống đạn, sáu viên Magnum cũng không phải dạng vừa. Sinh vật loạng choạng vỗ cánh – nó sà xuống đất như thể không ở trên cao nổi nữa, nảy manh một cái, và va vào tường đá.

“Giả thần quá trớn rồi hả, óc chim? Giúp ta một việc và tèo đi nhé.”

Durandall hú lên khi dứt điểm trận chiến.

“Gyygra…!”

Đầu á thần oặt ngược lại, chuyển đỏ. Cho dù sức phòng thủ của nó có mạnh tới mức nào, hai ba phát nhằm vào một chỗ sẽ đâm sâu vào cơ thể nó. Tất nhiên, sẽ cần một sự chính xác nhất định đến từ vị trí của xạ thủ, – một điều dễ dàng hơn khi mục tiêu đang sụp đổ trên mặt đất, không thể di chuyển.

“Gra…”

Thân hình lăn ra, khẽ co giật, rồi bất động.

“Thế là xong đời,” Yukinari nói với tiếng thở dài. “Mọi người có thể ra được rồi đấy.” Cậu đang nói về phía tảng đá lân cận. Khoảng mười người gia nhập, trông hoàn toàn khiếp đảm.

“Thổ thần… thổ thần đáng kính?” một người hỏi.

“Tôi không—“ Yukinari định nói, song có vẻ đổi ý.” À xin lỗi, chắc là vậy rồi.” Cậu gãi má vẻ gượng gạo.

“Ngài đã… hạ á thần đó sao? Chỉ một mình ngài?”

“Thì, tôi đã được giúp đỡ,” cậu nói, liếc nhìn Dasa.

Những người đi cùng cậu trong chuyến khảo sát này biết rằng Yukinari là “kẻ Sát thần,” nhưng chưa từng thực sự thấy cậu chiến đấu. Với họ, trận chiến vừa nảy ra trước mắt hẳn như một giấc mơ, hay một ảo giác. Từ những gì họ thấy, hai sinh thể trông như người bình thường vừa giết một vị thần – một câu chuyện dị thường nếu mà phải gọi.

Yukinari chỉ nói, “Được rồi, trở lại chuyến khảo sát thôi nào,” khi tiếng gọi lanh lảnh của Dasa thu hút sự chú ý của cậu.

“Yuki!”

Cậu ngay lập tức quay người lại thấy á thần mà cậu tưởng mình đã giết bật nhảy một cú mạnh. Rồi sinh vật giống chim kia bay lên không trung, bốn cảnh tỏa ra làn gió cường bạo.

“Giả chết sao?!” Yukinari hét lên, ngước nhìn.

Một số động vật “giả chết” khi đối đầu với một kẻ thù đặc biệt mạnh. Có vẻ là, á thần chỉ vừa đang giả vờ bị đánh bại để Yukinari lơ là cảnh giác. Chỉ có thể trách sự bất cẩn của cậu mà thôi.

Kích cỡ khủng bố của á thần không phải thứ mà bất kì loài chim hay động vật nào có thể đạt được trong quá trình phát triển bình thường, Trong hầu hết các trường hợp, một sinh vật già hơn cả trở thành “lõi” để một tá hay thậm chí vài tá các động vật khác được liên kết tâm linh với nhau. Để rồi trông giống như một đơn thực thể khổng lồ.

Khi á thần chết, ràng buộc sẽ bị phá vỡ và các động vật khác nhau tạo nên nó sẽ bị chia tách. Nhưng con này chưa hề cho thấy dấu hiệu nào của sự phân tách – đó có lẽ đủ để chứng minh nó chưa thực sự chết.

Yukinari giương Durandall nhanh hết mức có thể.

“Ta sẽ không để ngươi thoát đâu, đồ—!”

Nhưng con quái vật vẫn đang nặng nhọc bay lên. Yukinari nhìn lưng nó và khẽ thở hắt ra. Nó đã ra khỏi tầm bắn.

“Ờm. Dù sao thì, chắc là nó đã nhận được một bài học rồi.”

Yukinari không hề có sự thù ghét hay ác cảm đặc biệt gì với con á thần này. Cậu chỉ đơn giản là đánh trả khi bị tấn công. Nếu nó muốn bỏ chạy, thì cậu chẳng quan tâm nữa.

Dasa tức thì đưa ra lời phán quyết của mình:

“Đồ đần độn… Yuki.”

Khuôn mặt cô nàng khiến khi thể hiện cảm xúc hay đưa ra bất kì lời gợi ý nào về những suy nghĩ bên trong, nhưng tại thời điểm này trông cô gần như thể đang tự hào về bản thân mình, cho dù chỉ mình Yukinari, người đã biết cô nàng lâu hơn bất cứ ai, mới có thể nhận ra được.

“Đần độn hả? Sao lại thế?”

“Đó là… một con chim. Chúng không thể nhớ bất cứ thứ gì… nhiều hơn… ba bước đâu. Nó sẽ không học.”

“…Thể hả?” Yukinari cười cay đắng, nhìn á thần đang chạy thoát. Với cậu, trông nó không có vẻ là sẽ có ý định quay lại.

Friedland là một thị trấn thuộc biên giới. Nó ở cách xa thủ đô, có cái được và cái mất: nó không hề nhận được sự trợ giúp nào đáng kể, nhưng đồng thời có một sự tự do nhất định về mặt hành chính. Miễn là thuế được đóng và tuyến giao thương địa phương còn mở, thì trọng trách của nó đã được hoàn thành.

Những thành phố xa xôi như vậy vốn không bắt nguồn từ một phần trong nỗ lực có kế hoạch của thủ đô để xâm chiếm những vùng đất chưa được khai phá. Mà thay vào đó, chúng là kết quả tích lũy của các đoàn thám hiểm được cử đi bởi nhà vua, những người mà tìm thấy làng mạc hay thậm chí những vương quốc nhỏ vốn đã có sẵn trong những khu vực này. Các thuộc địa ấy sẽ trở thành một phần của hoàng gia, không lúc nào cũng là tự nguyện. Thông thường, những người vốn đang cai quản những khu vực này sẽ đơn giản là được phong chức thị trưởng hoặc chúa đất.

Phần nhiều những địa phương này, tất nhiên, có văn hóa và phong tục khác so với thủ đô. Chẳng hạn như giáo phái vô danh tôn kính các vị thổ thần – và dâng vật tế cho họ. Thổ thần là một vị thần đã hình thành liên kết tâm linh với một nơi cụ thể, và cai quản nó theo nhiều nghĩa. Sự ban phước của thổ thần có thể mang đến sự màu mỡ cho đất và xua đuổi á thần cùng ngoại thú.

Nhưng những sự bảo bọc như vậy thường đi kèm với một cái giá. Ở Friedland, đó là sự xuất hiện thường tình của vật tế sống. Điều này trở thành một tổ chức xã hội, và đã duy trì trong hàng trăm năm.

Và rồi, một ngày nọ, “truyền thống” đó đột ngột kết thúc.

Đó là bởi những người du hành tới khu vực này – thực tình, chỉ một trong số họ, một chàng trai trẻ. Yukinair Amano. Tóc cậu ta trắng như tuyết, mắt đỏ như máu, nhưng ngoài ra thì có vẻ cậu hoàn toàn là một chàng thanh niên bình thường. Cậu đã chen chân vào giữa buổi lễ và giết vị thổ thần đang chuẩn bị ăn thịt vật tế của nó.

Kết quả là một vị trí bỏ trống; Friedland bị bỏ lại mà không có thổ thần. Điều này tức là hai vấn đề chính sẽ có thể xảy ra: dân làng sẽ một lần nữa phải hứng chịu, như chúng ta đã nói, mối nguy hại từ á thần và ngoại thú, và thu hoạch sẽ trở nên ít ỏi hơn. Yukinari đã giải quyết vấn đề đầu tiên bằng cách tự mình đảm nhiệm vai trò của thổ thần. Nhưng còn vấn đề sau thì – không dễ dàng giải quyết như vậy.

“Được rồi,” Yukinari nói. “Dừng chân ở đây và ăn trưa thôi nào.” Cậu ngó qua vai mình. Mười người Friedland đi cùng cậu trong chuyến khảo sát đã xếp hàng sau lưng. Tám đàn ông, hai phụ nữ. Tính cả Yukinari và Dasa, là thành một đoàn thực địa mười hai người.

“Đức Chúa Tể Yukinari!” một người phụ nữ nhỏ nhắn nói, chạy tới chỗ cậu. Mái tóc hoe thắt bím, đôi mắt hiền từ màu hổ phách, và khuôn ngực đầy đặn. Chuyển động và cách biểu lộ của cô tiết chế và đứng đắn, nhưng liệu điều này khiến người khác muốn bắt nạt hay bảo vệ cô thì còn tùy người. Có vẻ cô không hề nhận ra điều này.

“Hẳn là ngài mệt rồi. Đây…” Cô chìa ra một cái bi-đông.

Tên cô là Berta Wohmann. Cô từng là một vật tế, cũng là lí do Yukinari giết thổ thần. Nay thần đã mất, cô lại được tế cho Yukinari, và hiện đang được biết đến rộng rãi với cái tên “tài sản” của Yukinari. Bản thân Yukinari không đặc biệt muốn điều này, nhưng Berta không còn nơi nào khác để đi, và cậu thì không thể để cô ấy tự lực cánh sinh một mình. Và thế là, cô cố gắng phục vụ cậu bất cứ khi nào có thể. Thế nhưng…

“Không… cần đâu.”

Không phải Yukinari, mà là Dasa cự tuyệt nỗ lực trở nên có ích của Berta. Cô nàng không biểu lộ gì nhiều hơn bình thường, nhưng có một nét khó chịu trong giọng nói. Mặc dù, lại nói, có lẽ Yukinari là người duy nhất nhận ra.

“Nhưng, Phu nhân Dasa—“

“Yuki sẽ uống… cái này.” Cô nàng tuột cái túi luôn đem bên mình khỏi lưng và lục lọi để lấy ra một cái lọ nhỏ.

“Đó là gì vậy…?”

“Nó có dinh dưỡng đặc biệt,” Dasa nói niềm tin chiến thắng không lẫn vào đâu được. “Đồ uống em đã… chuẩn bị. Chị gái em là một nhà giả kim. Nên… tất nhiên em biết cách… làm những thứ thế này.”

Berta thở ra một hơi, biểu lộ của cô có chút gì đó như bị áp đảo. Dasa chắc chắn Berta có thể thấy mình đưa tận tay cái chai cho Yukinari.

“Yuki, uống đi.”

“Không, khoan đã.” Cậu nắm chặt tay với linh cảm chẳng lành. “Những gì em biết là cách làm dược phẩm giả thuật kim mà, phải không?”

“Thì?”

“Thì thế đâu có giống làm đồ ăn.” Cậu ngắt quãng. “Em đã nếm thứ này chưa?”

“Không cần thiết. Em đã theo chính xác… công thức.”

“Đó là lúc mà em cần phải nếm nó nhất ấy. Anh đảm bảo nó sẽ không thành ra như em mong đợi đâu.” Yukinari trông như thể sắp nén một tiếng thở dài.

Dasa quả thực là em gái của nhà giả kim Jirina Urban, và đã từng làm việc với tư cách trợ lí của chị gái. Cô nàng thành thạo với một số loại kiến thức, nhưng giai đoạn không thị lực kéo dài đồng nghĩa với việc cô nàng chưa từng được cho phép giúp chế tạo hay các công việc sản xuất thực tế khác, và kinh nghiệm thực hành của cô gần như là một con số không tròn trĩnh. Cô nàng chỉ đơn thuần đang làm việc từ nhưng kiến thức mang tính lí thuyết.

Quay trở lại hồi hai người còn nay đây mai đó, cô nàng đã từng thử cố nấu ăn vài lần. Khuynh hướng của cô đơn giản là làm theo các bước trong công thức mà không hề nếm thử hay điều chỉnh, có nghĩa là nỗ lực của cô thiếu một sự tự phát nhất định; chúng không hề xét tới các nguyên liệu mà cô thực sự có. Kết quả không tránh khỏi là quá ngọt, quá cay, hoặc quá đắng. Trong tình trạng ấy, Yukinari đã tự mình tiếp quản việc nấu nướng.

“…Yuki.” Đôi mắt xanh của Dasa chăm chú nhìn cậu qua mắt kính. “Vậy tức là anh… thích nước của Berta hơn à?”

“Đây là cuộc tranh cãi ngớ ngẩn nhất mà anh từng biết… Này nhé, vấn đề không phải là em hay Berta, anh chỉ muốn nước, chấm hết. Ý anh là… Anh rất cảm kích việc em làm cái đó cho anh, chỉ là…”

Một khoảng lặng rất dài. “Tốt thôi,” Dasa nói sau một hồi lâu. Khẽ gật đầu, cô nàng đổi chai nước đang cầm lấy một chai khác trong túi. “Nước cất đấy. Uống đi.”

Yukinari hiểu việc đun nước để diệt vi khuẩn, nhưng đặc biệt chưng cất tất cả nước uống của họ sẽ là một quá trình tốn nhiều công sức. Mặc dù, để mà nói tới mức độ nó lọc ra hầu hết những thứ xấu trong nước, thì chắc chắn là tốt để uống.

Bất luận thế nào, nếu cậu tiếp tục từ chối lời mời của cô nàng, tâm trạng của Dasa sẽ chỉ càng trở nên tệ hơn. Cô nàng không phải là loại hét lên hay hờn dỗi, nhưng giận dữ trong im lặng thì cũng kinh khủng đấy. Một khi đã thành như thế, sẽ phải mất rất nhiều thời gian và công sức để khiến cô trở lại bình thường.

“Đưa đây,” Yukinari nói, nhận lấy chai nước từ Dasa.

Rồi Berta, nãy giờ vẫn lẳng lặng chứng kiến từ đầu đến cuối, cười và nói, “Giờ thì, Chúa Tể Yukinari, hãy ăn một chút gì nhé.” Cô đưa cho cậu một gói nhỏ.

“Không… cần đâu,” Dasa lại xen vào.

“Ờm, thực ra, Dasa nè, nó có cần thiết đấy. Dứt khoát là cần.”

“Yuki, ăn này đi,” Dasa nói, mang ra “chất lỏng giàu dinh dưỡng” nằm gọn trong túi cô nàng.

“Khá chắc nó là đồ uống đấy.”

“Nó chứa đầy chất dinh dưỡng.”

“Nghe tuyệt đấy. Nhưng anh chỉ muốn một bữa ăn bình thường thôi!” Giọng Yukinari nghe như thể tiếng hét trong vô vọng. Có vẻ như Dasa nuôi ý định tranh chòe với Berta bằng mọi cách có thể. Berta thì thường nhẫn nhịn, nên chưa bao giờ có một cuộc chiến thực sự cả, nhưng Yukinari lại cảm thấy có chút tệ cho cô gái lúc nào cũng phải đôi co với đồng đội của cậu.

Chưa kể có một sự thật rằng cậu không tin tưởng Dasa khi nói tới đồ ăn, và cảm thấy an toàn hơn khi ăn đồ của Berta… Nhưng thực sự nói ra chỉ tổ khiến cho Dasa bĩu môi giận dỗi.

Cô gái thứ ba và cũng là cuối cùng trong nhóm khảo sát tới chỗ họ, giọng nghe có phần bực bội:

“Mấy người đang làm gì vậy?”

Fiona Schillings. Với mái vàng óng và đôi mắt màu xanh ngọc, quả thực là một mĩ nhân. Đường nét trên khuôn mặt đâu ra đó, tạo ấn tượng về sức mạnh cá nhân. Theo một vài cách cô là cực đối diện với Berta. Nếu Berta thuộc tuýp dễ bảo, thì Fiona hướng ngoại, dường như luôn sẵn sàng dẫn đường chỉ lối.

Cũng phải thôi – Fiona là con gái của ngài thị trưởng và hiện đã tiếp quản trọng trách hàng ngày công việc duy trì thị trấn trong lúc cha cô liệt giường vì bệnh. Đó không phải một vị trí mà cô có thể đơn giản là chờ người khác bảo mình phải làm gì. Yukinari không rõ liệu Fiona vốn dĩ là người chủ động hay đó là đặc tính cô đã tự phát triền trong lúc đảm nhiệm trọng trách của cha mình.

Lúc này cô buộc mái tóc dài sau đầu, có lẽ để tránh làm vướng víu mình hoặc người khác trong chuyến khảo sát. Kết hợp cùng với phong thái điềm tĩnh, bằng cách nào đó nó mang lại cho cô một vẻ ngoài trưởng thành – và vẫn đáng yêu, kiểu hợp với độ tuổi.

“Ờm, chúng tôi, ờ… không có gì đâu…” Yukinari nói, với một nỗ lực nghèo nàn nhắm đánh lạc hướng cô. Không có gì khó khăn để giải thích rằng Dasa và Berta đang cãi nhau những thứ nhỏ nhặt xung quanh cậu, song suy nghĩ ấy khiến cậu cảm thấy rất tự giác, và quá xấu hổ để nói thành lời.

“Nhân tiện, anh định làm gì với cái đó?” Fiona chỉ phía trước mặt họ nơi một tảng đá to bằng cỡ một ngôi nhà nhỏ nằm ngáng đường. Vách đá khép lại hai bên, nên trừ khi có thể leo qua, bằng không thì họ đã ở ngõ cụt. Đây là lí do mà Yukinari kêu dừng lại ở dây.

“Ý cô làm gì là sao?”

“Chừng nào nó còn ở đó, chúng ta sẽ không lấy được nước.”

Yukinari không hề có khả năng trực tiếp điều khiển đất đai như hầu hết thổ thần, Nhưng không nhất thiết phải là thần thì mới có thể cải thiện tình hình canh tác. Cậu cho rằng tiêu chí đầu tiên là nên tích trữ nhiều nước, và đã vẽ bản thiết kế cho kênh thủy lợi nối liền từ hồ phía nam tới rìa thị trấn.

Nhưng khoảng cách là khá xa giữa vị trí của hồ và ruộng. Một con kênh thủy lợi chạy tuốt từ cánh này sang cánh nọ sẽ cần một lượng lớn công sức để xây. Họ ở đây để điều tra xem liệu có thể hướng nước qua thung lũng, nơi nằm giữa hai đầu. Nếu được, Yukinari hy vọng có thể hoàn thành xây dựng con kênh trước khi về nhà. Do đó, một vài người Friedland đã đi cùng cậu.

Cậu vô tư trả lời Fiona. “Ồ, cái đó à? Không to lắm đâu. Chúng ta sẽ tìm ra cách gì đó.”

“Thế thôi à?”

“Hừm. Có lẽ chúng ta nên đứng ra và làm gì với nó thôi. Berta!”

“Vâng, Chúa Tể Yukinari?” Berta đáp, mừng rỡ vì được cậu gọi tên.

“Bảo mọi người giữ nguyên bữa trưa trong đồ đựng vài phút đi,” cậu bảo. “Tôi không thích để đồ ăn dính bụi đâu.”

“Bụi sao, thưa Chúa Tể…?”

“Ừa. Cứ bảo họ thế.”

Và rồi Yukinari bước về phía tảng đá.

Trong lúc đi, cậu ngẫm nghĩ về một vài kiến thức. Công thức cấu tạo hóa học. Tính toán vật liệu. Tất cả cậu đều đã học ở “thế giới trước,” nhưng trước khi “tái sinh,” hiếm khi cậu nhớ nổi chúng. Phải đến lúc nhận được cơ thể này cậu mới có khả năng tùy ý tiếp cận những kí ức trong quá khứ.

Người ta nói rằng bộ não không bao giờ để mất thông dù chỉ nhìn một lần. Nhưng nhiều người không thể chạm tới những kí ức ấy – mang chúng tới tâm thức. Bởi lẽ lượng thông tin chúng ta có thể xử lí tại một thời điểm là có hạn, theo thời gian nhiều kí ức lùi dần vào vùng sâu của tâm trí.

Nhưng Yukinari có thể gợi lại bất kì kí ức nào như tìm kiếm cơ sở dữ liệu máy tính. Có lẽ bởi vì những kí ức ấy nằm ở “vùng song song” sau khi cậu chết, hoặc có lẽ nó là một đặc tính đặc biệt của cở thể này – cậu không rõ.

Lặng lẽ, cậu chạm tay phải vào tảng đá. Cậu làm một vài phép tính nhẩm rộng, rồi tập trung tinh thần.

“…Mm.”

Ánh sáng xanh nhạt từ lòng bàn tay cậu thấm vào tảng đá. Chỉ mất vài giây. Rồi cậu quay lại và nói, “Mọi người, lùi lại chút nha! Sẽ bừa bộn đấy, Ồ, mà để cho an toàn, bịt tai lại nhé.”

Vài người đi cùng cậu đứng đó như không hiểu cậu vừa nói gì, và Fiona lệnh cho họ bịt tai và lùi lại vài bước.

“Rồi, tới nào.”

Cậu tập trung vào tảng đá, rồi lùi lại tầm mười mét. Cậu nhanh chúng rút Durandall từ bao đựng trên lưng và bắn vào điểm cậu chạm vào vữa nãy.

Một vụ nổ mờ mịt, không tiếng động. Liền đó, sự hiện diện của tảng đá dường như không còn, và ngay tiếp sau đó, một đống mảnh vỡ nhỏ trên nền thung lũng. Vài phần đá đã tan thành bụi trôi theo gió, nhưng không nhiều đến được chỗ Berta và những người khác đang đợi. Vụ nổ lặng lẽ một cách ngạc nhiên là minh chứng rằng, mặc dù nhanh và bẩn, tính toán của cậu phần lớn là chính xác – âm thanh nổ chỉ là năng lượng không được sử dụng thoát ra không khí.

“Yukinari…!”

Cậu quay lại thấy Fiona đang đứng sau lưng, tròn mắt. Dasa và Berta nhập bọn không lâu sau đó.

“Anh vừa làm cái quái gì vậy?”

“Tôi đoán cụm từ ‘tái cấu trúc vật lí’ không có nghĩa gì với cô cho lắm nhỉ…?” Cậu cười bất lực. “Nhưng cô có biết bột nổ, phải không?”

“Thì… Ít nhiều.” Fiona đáp không chắc chắn. Có vẻ cô biết về sự tồn tại của nó, nhưng chưa bao giờ thấy nó hoạt động trước khi Yukinari đến Friedland. Phương pháp chế tạo nó hẳn là không được biết đến rộng rãi; đối với người bình thường, có lẽ nó hiếm như vàng bạc.

“Bởi vì tôi là một ‘thiên sứ.’ Tôi có thể biến bụi thành vàng, và tất nhiên tôi có thể biến từng phần của đá thành bột đen (thuốc súng nguyên thủy). Đó là cách tôi phá hủy tảng đá. Chắc tôi đã có thể biến nó một đống thành thứ gì đó hữu dụng hơn, nhưng có giới hạn về lượng vật chất tôi có thể biến đổi trong một thời điểm.” Đó là lí do tại sao chúng ta đã không thể đơn thuần biến tảng đá thành không khí.

“Anh thực sự là một thiên thần, phải không?” Fiona nói, nghe vô vùng ấn tượng.

“Hả, cô ngạc nhiên à? Cô đã từng thấy tôi dùng sức mạnh rồi mà.”

“Chắc thế. Nhưng chỉ lúc chiến đấu thôi. Và ngay cả sau đó anh cũng tránh dùng nó.”

“Chắc đúng thế thật.” Yukinari nở một nụ cười mơ hồ. Rồi cậu hỏi, “Vậy có làm cô buồn không?”

“Thiên thần” là những con người nhân tạo được tạo ra bởi tổ chức tôn giáo mang tên Giáo Hội Chân Chính Harris với mục đích truyền giáo. Được tạo ra bằng kỹ nghệ giả kim tốt nhất, chúng là những thiết bị giả kim thuật sống nhằm mục đích dễ dàng truyền bá “phép màu thần thánh.” Chúng gần giống như những linh vật, một cách để thu hút lòng tin người khác. Và linh vật thì cần ý thức bản thân để làm gì? Chúng chỉ đơn thuần là công cụ cho Giáo Hội.

Có vẻ linh hồn con người là cần thiết để những con búp bê nhân tạo này hoạt động, nhưng linh hồn đối với thiên thần cũng như mồi lửa đối với lò đốt. Chỉ là cách để bắt đầu mọi thứ. Một khi trái tim của người nhân tạo bắt đầu đập, linh hồn con người chính gốc gắn với nó sẽ bị đào thải, gạt bỏ như cặn bã.

Nhưng Jirina Urban – người tạo ra cơ thể Yukinari – đã không hủy hoại bản ngã của cậu, dù cậu không rõ nguyên do. Dù lí do của chị ấy là gì, chị đã làm điều đó trái với mệnh lệnh, và bị giết như kẻ phản bội Giáo Hội.

Nhưng bất kể thế nào—

“Buồn á? Không đâu,” Fiona nói. “Mặc dù tôi nghĩ thật thảm hại khi anh có thể giết thổ thần, nhưng chẳng thắng nổi cuộc tranh cãi với Dasa.”

“Được rồi. Ý tôi không phải cái loại buồn đấy.”

“Đã bảo rồi mà, trông anh không khác người thường đâu. Chỉ là có vẻ anh sở hữu một vài khả năng dị thường. Cơ mà giờ nói vậy là báng bổ, phải không ta, lạy thần?” Fiona nói vẻ trêu chọc. “Nói thật thì, tôi chỉ ngạc nhiên thôi mà.”

“…Hử.” Yukinari nhún vai. Cậu vốn lo ngại rằng, trước lời nhắc nhở việc cậu không phải người, có lẽ cô ấy có giác ghét bỏ và ghê tởm. Nhưng không cần phải lo nữa rồi.

“Nếu anh không tin tôi,” Fiona nhếch mép nói. “liệu tôi có thể đến phòng ngủ của anh tối nay chứ?” Cô ấy có những nét mạnh mẽ, và đôi mắt thì vốn có hình gần như quả hạnh. Lúc nheo mắt cười, trông cô giống như một chú mèo khoái chí.

“Thế thì chứng minh được điều gì?” Yukinari nói.

“Yuki… đồ hám gái.”

“Dasa, đã bảo em đừng để ý trò đùa của Fiona mà!”

Cô nàng bé nhỏ tăm tia cậu với ánh nhìn giận dữ sau cặp kính.

“Anh nghĩ đó là một trò đùa sao? Tôi tổn thương đấy.”

“Cô rất thích hành hạ tôi phải không, thưa Phó Thị Trưởng?”

“Hành hạ một vị thần sao? Không dám!” Fiona nói, rõ ràng là đang tận hưởng.

“Ờ, ừm… tất nhiên, em cũng… dâng mình…”

“Berta, em cũng cần phải biết lúc nào Fiona đùa.”

“Ủa,” Berta nói. “Ngài ấy đang… đùa sao?” Có vẻ như Berta, ít nhất, cũng đã đưa ra lời mời hoàn toàn chân thành.

“Thôi bỏ đi. Theo bản đồ thì hồ ở ngay phía trước rồi, tức là chúng ta đã vượt qua chướng ngại đầu tiên để lấy nước. Nếu cánh đàn ông có thể giúp dọn chỗ mảnh vụn, thì thật tốt. Ồ, để sau khi ăn cũng được.”

“Vâng, tất nhiên rồi,” Fiona gật đầu. “Chúng tôi không hề có ý định để anh tự mình làm hết.” Rồi cô quay về phía mấy người vừa lại gần để xem chính xác điều gì đã xảy ra với tảng đá, và bắt đầu đưa ra chỉ dẫn. Nãy giờ họ cứ đực ra trước “phép màu” của Yukinari, và như thể thở phào nhẹ nhõm khi nhận được mệnh lệnh cụ thể. Họ đồng loạt gật đầu với Fiona không một lời phàn nàn.

“Giờ thì chắc mình có thể ăn được rồi.” Yukinari nói, xoa xoa vai bằng tay phải.

“Yuki, thức uống dinh dưỡng đặc biệt.”

“…Rồi, rồi. Đưa đây xem nào.”

Thấy cô nàng tóc bạc đưa cho mình cái chai với vẻ mặt như thể niềm vui chiến thắng, Yukinari chỉ biết gật đầu, chịu trận.

Cuộc khảo sát và công việc xây dựng trong ngày dừng lại trước khi mặt trời lặn. Hay đúng hơn là, một sự tạm dừng đã được đưa ra khi mặt trời bắt đầu xuống. Hoàng hôn sẽ nhấn chìm cảnh vật trong bóng tối. Bên cạnh mối nguy thông thường từ á thần và ngoại thú, còn phải kể đến những loài thú hoang có tầm nhìn tốt trong đêm, và cả khả năng trộm cắp hoành hành nữa. Đối với cư dân Friedland, loại người ngoài vòng pháp luật sống ở nông thôn cũng chẳng khác nào quái vật.

Yukinari có thể giết bao nhiêu thần tùy thích, nhưng bảo vệ mười dân làng không có khả năng tự vệ là ưu tiên hàng đầu của cậu. Chẳng có lí do gì để bắt họ làm việc vào khoảng thời gian nguy hiểm trong ngày như vậy.

“Hôm này làm tốt lắm, mọi người,” Fiona nói, rà soát lại mọi người một lượt. Họ đã trở về thị trấn và sẽ đi những con đường tách biệt từ quảng trường Friedland dùng cho những sự kiện đặc biệt. Khu vực này vốn từng được sử dụng để chuẩn bị cho những nghi thức tôn giáo – đó là, để sửa soạn vật tế trước họ được gửi đến thổ thần. Bởi lẽ đó, nó nghiễm nhiên nằm gần thánh địa nơi các linh mục ở.

Tình cờ thay, cấu trúc được thiết lập để quan sát nghi lễ cũng được gọi là thánh địa, có lẽ vì nó cũng được quản lí bởi chức tư tế. Để mà nói một thánh địa đáng ra phải là ngôi nhà của thần chứ không phải của thầy tu, thì “thánh địa” thứ hai này xứng đáng với cái tên nhất. Tòa nhà nơi các thầy tu sống trong thị trấn lẽ ra nên được gọi bằng một cái tên khác. Nhưng theo truyền thống ở Friedland cả hai đều được gọi là thánh địa, và ngoại trừ các vật tế đến chỗ thổ thần trên núi hai năm một lần, chẳng có ai tự tiện đến chỗ thánh địa bỏ hoang. Nên là, khi người Friedland đề cập tới “thánh địa” trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, ý họ thường là cái trong thị trấn.

“Buổi tối tốt lành,” Fiona nói, và rồi từng người trong cánh đàn ông của đoàn khảo sát khẽ cúi đầu về hướng Yukinari trước khi trở về nhà riêng của mình.

Trời đã tối hắn, và đuốc đã được thắp trong quảng trường thị tranas. Những ngọn lửa chập chờn tạo ra màn biểu diễn sáng tối phức tạp.

Yukinari ngó trông thấy Berta đang nhìn mình với vẻ mặt bối rối. Có vẻ nó chứa đựng nhiều cảm xúc – như thể cô ấy sắp sửa cười, hoặc khóc, hoặc không cái nào cả.

“Berta?”

“Dạ—vâng?” Cô chớp mắt khi bị gọi tên, rồi nhìn cậu vẻ thắc mắc. “Chúa tể cần gì?”

“Cô ổn chứ? Trông cô như sắp sửa khóc đến nơi ấy. Hay là—mà khoan. Không phải thế.” Yukinari ngắc ngứ, tìm kiến từ thích hợp. “Dù sao thì, trông có vẻ đang suy nghĩ nhiều chuyện.”

“…Chỉ là, em… đã rời đi từ đây.” Berta cười như nhớ lại một kỉ niệm đẹp. “Và em không… nghĩ mình sẽ bao giờ quay trở lại.”

Cô ấy nói đúng: đây hẳn là nơi cô phải tới khi được dâng lên làm vật tế dưới uyển ngữ “vu nữ,” và chỉ ngay ngoài thánh địa đối diện với quảng trường là trại trẻ mồ côi nơi cô được nuôi dưỡng. Đó hẳn là một nơi chứa đựng nhiều cảm xúc.

Cô mỉm cười, thoáng một nét ngại ngùng nữ tính trong giọng nói. “Nếu có thể trở lại và nói với bản thân, thì em muốn bảo với cô ấy. Rằng mọi chuyện sẽ ổn thôi, rằng cô ấy sẽ an toàn trở lại, cùng với một người tốt hơn cô ấy từng tưởng tượng – có thể tưởng tượng được.” Cô nói vui vẻ, đặt cả hai tay lên ngực.

“Berta…” Yukinari nhìn cô một thoáng – nhưng đủ để nhận ra thứ gì đó ở cửa sổ của thánh địa. Cánh cửa chớp mở he hé từ lúc nào, và có kẻ nào đó đang nhìn trộm. Khả năng cao, là một thầy tu. Khi hắn bắt gặp ánh mắt của Yukinari, cánh cửa chớp vội vã sập lại.

“Yuki?” Dasa nói, săm soi mặt cậu. “Chuyện… gì thế?”

“Ồ… Không có gì đâu.”

“Anh… đang… nhìn Berta?” Yukinari vốn đang nhìn tòa nhà phía sau Berta, nên từ góc độ của của Dasa hẳn có vẻ là cậu đang nhìn cô gái. “Ngực… cô ta, phải không?”

“Sao cũng được, Không, anh không có nhìn Berta. Mà đang nhìn tòa nhà kia kìa,” Yukinari nói, ám chỉ nơi các thầy tu sống. “Đám tu sĩ đó đang nhìn anh kìa.”

“…Ồ.” Đôi mắt xanh chớp chớp.

“Vậy thôi. Dù sao thì, không có gì ngạc nhiên cả. Không phải lo lắng gì đâu, Dasa.”

“Nhưng mà, Yuki…”

“Thật đấy. Đừng có lo.” Cậu vừa cười vừa nói, tiện đưa tay ra chạm vào má Dasa. Dasa vốn được sinh ra với bệnh đục thủy tinh thể và đã không có khả năng nhìn trong phần lớn cuộc đời. Yukinari đã tạo ra thấu kính nhân tạo cho cô thị lực gần tốt như người bình thường, nhưng ngay cả vậy, dường như cô nàng không lúc nào thoải mái chỉ với thị giác của mình. Một bàn tay chạm vào má hoặc tóc còn có tác dụng trấn an hơn cả lời nói.

Giờ thì cô nàng đặt tay vào Yukinair, như đang cảm nhận thân nhiệt của cậu. Đến từ một cô gái hiếm khi bày tỏ nhiều cảm xúc, những cử chỉ như vậy thật ấm lòng. Yukinari khẽ di chuyển tay, xoa má cô nàng. Dasa nheo mắt như một chú mèo thích chí và khẽ mỉm cười.

Fiona, sau khi giải tán các thành viên còn lại trong đội khảo sát, lên tiếng. “Yukinari. Tôi muốn bàn về kế hoạch ngày mai của chúng ta. Anh tới dinh thự được chứ? Tất nhiên, cùng với Dasa và Berta. Tôi có thể chuẩn bị phòng tối nay cho mọi người.”

Hiện tại, Yukinari, Dasa, và Berta đang ở thánh địa – cái ở hơi xa thị trấn. Tại nơi từng là thánh địa của thổ thần, một căn nhà tạm bợ đã được dựng lên, nhưng không thể tránh khỏi ấn tượng rằng nó được xây một cách cẩu thả. Nó đủ vững chãi để ngăn mưa nắng, nhưng còn bồn cầu, nhà tắm, và các tiện nghi khác đều khó sử dụng.

“Tuyệt đấy. Nếu tôi có thể tiện dùng nhà tắm ở đó thì hôm nay đúng là không còn gì để nói rồi.”

Fiona gật đầu cười gượng.

Bồn tắm tại dinh thự Schilings được rút từ một mạch nước ngầm lân cận, tức là có khá nhiều nước nóng để tắm. Tình cờ thay, Yukinari đã đặt câu hỏi liệu có thể làm nguội nước để dùng cho canh tác được không, nhưng ý tưởng tương tự đã đến với Fiona không lâu trước đó, và đã được thử. Có vẻ là có một vài vấn đề với chất lượng nước khiến nó không thích hợp để dùng cho mùa vụ.

“Hãy cho phép em kì lưng cho ngài, Đức Chúa Tể Yukinari.”

“Ô ô, ý hay đấy,” Fiona xen vào. “Cùng tắm chúng thôi nào.”

“…Hám gái.”

“Dasa, này nhé, em phải hiểu là anh không có đòi hỏi điều này!” Yukinari nói, trùn vai trước cú lườm của cô nàng.

Bản đồ khu vực trải ra trên sàn phòng khách nhà Schilling. Trước mắt là vậy bởi ngôi nhà không bàn đủ rộng để đặt bản đồ—bàn ăn tối đủ dài, nhưng không đủ rộng—nhưng giờ thì, Yukinari đã phát hiện ra một vài lợi thế ngạc nhiên khi nhìn bản đồ theo cách này. Nếu đứng dậy, cậu có thể nhìn toàn cảnh một lúc. Bởi lẽ cậu được giao trọng trách bảo vệ toàn bộ Friedland và khu vực lân cận, đây là một góc nhìn hữu ích.

Đứng ở phía xa của bản đồ, Fiona nói, “Vậy là hôm nay, chúng ta đã loại bỏ tảng đá ngáng đường. Điều đó đã mở ra lộ trình ngắn nhất từ Friedland tới hồ phía nam. Anh có kế hoạch gì cho ngày mai không?

Fiona không phải là người phụ nữ duy nhất đang nhìn bản đồ; Berta đứng bên phải Yukinari, còn Dasa bên trái. Đây có vẻ như đã trở thành những chỗ cắm chốt của họ; không hẳn là họ đã chọn những chỗ đó mà bởi Yukinari, trong vô thức, thường để Dasa đứng bên tay trái mình. Việc này dẫn đến Berta thường trực bên tay phải cậu.

“Tất cả những gì chúng ta đã làm cho tới nay là tiến đến việc kết nối thung lũng và hồ. Chúng ta phải làm nhiều hơn là chỉ kết nối chúng và để nước chảy. Chúng ta sẽ cần một vụ nổ có kiểm soát nữa – để loại bỏ một vật cản khác như đã làm hôm nay – để kết nối hồ với Friedland. Nhưng sẽ cần một vài sự chuẩn bị chu đáo để nước chảy tới đều đặn. Phải không, Dasa?”

“Mn—nhất trí,” là lời đáp của cô nàng trước nỗ lực để cô tham gia vào cuộc trò chuyện của Yukinari.

Từ một trợ lí trở thành một nhà giả kim, Dasa đã có kinh nghiệm với bình chứa và thiết bị tương tự, cũng như thuốc men và thảo dược, nên cô hiểu các đặc tính của chất lỏng. Sự khác biệt giữa ống nghiệm và con kênh, dù lớn thế nào, cũng chỉ là về mức độ chứ không phải thể loại.

“Thế nên là,” Yukinari nói tiếp, “Tôi nghĩ đây chắc là chuyến viếng thăm khu vực hồ cuối cùng của chúng ta trong một thời gian. Hãy tập trung vào việc đào một con kênh dọc đường. Chúng ta có thể thêm nhánh dẫn tới ruộng, để chắc rằng nước sẽ có chỗ để đi khi nó chảy tới. Đó phần nhiều chỉ là công việc tay chân, nên sẽ để cánh đàn ông lo liệu. Chắc sẽ không có rắc rối gì với á thần ở gần thị trấn như này, và chúng ta có thể để vài đội làm việc cùng một lúc. Còn về nơi để đào, thì cứ theo bản đồ gốc của tôi.”

Tất nhiên, Yukinari có thể dùng sức mạnh thiên thần của mình để biến tất cả đất cậu chạm vào thành nước hoặc không khí hay bất cứ gì cậu muốn. Khả thi để đào con kênh thủy lợi theo cách đó, nhưng sự thật là tái cấu trúc vật lí không phải cách hiệu quả nhất để làm công việc như vậy.

“Tôi không thực sự nghĩ người khác sẽ nghe nếu tôi bảo họ làm gì đó. Nên là Fiona, tôi sẽ trông cậy để cô giao việc cho họ nhé.”

“Tất nhiên rồi. Mà… suốt lúc đó anh sẽ làm gì vậy, Yukinari?”

“Có một vài ý tưởng. Tôi muốn cải thiện đất.” Để trả lời, Yukinari đưa ra một vài thứ có vẻ hữu ích từ kí ức về “thế giới trước” của cậu. Cậu bảo rằng: “Đất ở khu vực này – nó không cằn, nhưng cũng không màu mỡ. Nếu như chúng ta có thể làm phân bón đơn giản hơn… Không, khoan đã. Có lẽ chúng ta nên sản xuất công cụ làm nông tốt hơn trước. Nói chung là, tôi muốn tìm ra một cách để cho đất thêm sức sống.”

Trồng hoa màu trong một khu vực kín, như cánh đồng, khiến đất cạn kiệt một cách hiệu quả. Cây cắm rễ hút dinh dưỡng và không khí trong đất, biến nó, cho mọi mục đích thực tế, thành đất hoang. Phải, mưa và không khí chứa ni tơ, thứ có thể giúp cây phát triển, nhưng về lâu dài thì không đủ. Người ta có thể trồng hoa màu, và thu hoạch chúng, nhưng rồi đất phải được nghỉ ngơi—bỏ không, hấp thụ ánh mặt trời và lấy lại chất dinh dưỡng của nó. Nói cách khác, nó phải tự mình hồi phục. Friedland, không phải bàn, thực hành hệ thống canh tác và nghỉ ngơi này, nhưng theo hình thức cũ; tính toán rộng ra thì nó mang lại hiệu quả kém.

Tình trạng hiện tại của công cụ làm nông người Friedland dường như bao gồm những lưỡi cày lớn được kéo bởi ngựa hoặc bò. Yukinari không thể không nghĩ rằng trang thiết bị tốt hơn – dạ thưa, không phải máy móc hay kĩ nghệ phức tạp, mà là công cụ cải tiến – có thể gia tăng sản lượng nông nghiệp. Đất đã được dùng lâu tới mức nó trở nên thô, khó bám rễ. Canh tác thông thường là cần thiết, nhưng nếu được cậu muốn cải thiện hiệu quả. Yukinari nghiền ngẫm những khả năng, sục sạo kí ức từ “thế giới trước.”

Có khi mình có thể tạo ra một động cơ đơn giản, nhưng một cơ sở phát điện thì có lẽ là đòi hỏi hơi quá. Một khi kênh thủy lợi được thiết lập, có thể chúng ta sẽ xoay sở một cái bánh xe nước? Cơ mà…

Sự dễ dàng khi Yukinari chế tạo Durandall và Ớt Đỏ là nhờ có các mẫu súng cậu từng tháo lắp ở thế giới trước. Cậu nhớ hồi tiểu học từng làm một thí nghiệm tạo ra động đơn giản bằng cách quấn dây đồng quanh một nam châm vĩnh cửu. Nhưng để mà nói đến việc tạo ra một máy phát thực sự—thì, đó là thứ nằm ngoài kiến thức của học sinh trung học bình thường. Cho dù hiểu được những nguyên lí liên quan, cậu sẽ phải luận ra chi tiết bằng cách sai và thử.

“Dù sao thì, bởi vì tôi không có chung một liên kết tâm linh với đất đai gì đó, tôi không thể điều khiển nó được. Tôi sẽ phải tìm cách khác để khiến nó làm điều mình muốn.”

“Ra vậy,” Fiona vừa nói vừa gật đầu khâm phục. Từng học tại học viện ở thủ đô, cô là người sở hữu nhiều kiến thức hơn bất kì ai ở Friedland. Và không nghi ngờ gì cô là một người có tư duy tốt: dường như cô còn hiểu được những gì Yukinari đang nói mà không cần cậu phải giải thích chi tiết.

Berta, mặt khác, lắng nghe tất cả những điều này như nước đổ đầu vịt. Không phải lỗi của cô ấy; cô chưa từng có cơ hội để nhận được sự giáo dục tử tế hơn.

“Tôi được biết vôi sống là một loại phân bón tự nhiên,” Fiona nói. “Và tôi nghe ở ven biển họ dùng vỏ nghiền – nhưng ở nội địa thì nó đắt lắm.”

“Chắc rồi. Đó không hẳn thực sự là phân bón,” Yukinari đáp. “Giống như một cách để cải thiện đất, hay cân bằng độ pH hơn…”

“Độ pH…?” Đến cả Fiona cũng chịu cái này.

“Chúng ta sẽ phải nói chuyện rất lâu nếu tôi giải thích chi tiết. Nhưng mà… Hmm. Đất thực ra giống như nước; nó có thể ‘mềm’ hoặc ‘cứng’ hoặc đâu đó giữa giữa. Và những loại cây khác nhau giống như những loại đất khác nhau. Nên là bằng cách đặt đúng loại cây vào đúng loại đất, ta sẽ thu hoạch được nhiều hơn. Hợp lí không?”

Ít ra thế giới này có vẻ có tồn tại kĩ thuật cải thiện đất cơ bản. Nhưng vì không có kiến thức hóa học, nông dân chỉ còn cách đoán theo học thức của mình xem cái gì thì được. Đó, dù thế nào đi nữa, cũng có vẻ là mặt Friedland tỏ ra công nghệ. Và lại nói, năng suất của đất gắn liền với nhiều hơn là chỉ những nhân tố môi trường đơn giản. Năng lực tâm linh hay kinh tuyến đất hay cả thứ mà mà thổ thần điều khiển cũng tham gia vào phép tính. Điều đó khiến cho tình hình trở nên phức tạp tới mức gần như là bất khả thi để ai đó đủ hiểu nhằm thúc đẩy tiến bộ công nghệ.

“Này nhé, nãy giờ tôi có nói về kênh thủy lợi như thế chúng ta chỉ cần một cái. Nhưng một khi kênh chính sẵn sàng, chúng ta sẽ cần đào thêm kênh bổ sung để dẫn nước tới từng cánh ruộng.”

“Kênh bổ sung…” Fiona nheo mắt suy nghĩ một chốc. “Tức là kênh nhỏ để mang nước ra đồng, phải không? Và chúng ta sẽ có thể đóng hoặc mở chúng tùy theo ruộng nào đang nghỉ ngơi ở từng thời điểm cụ thể, chuẩn chứ?”

“Phải, chính xác là vậy,” Yukinari nói, và rồi cậu ngạc nhiên để ý phó thị trưởng. “Cô tiếp thu nhanh ra phết đấy nhỉ, Fiona?”

“H-Hả, anh ngạc nhiên à? Ý tôi là, đ-đã sao chứ?”

Một phản ứng thất thường từ Fiona, xét đến việc Yukinari chỉ đơn giản đưa ra ý kiến thật lòng của mình. Rõ là cô có hơi đỏ mặt, như kiểu nó khiến cô cảm thấy kì quặc.

“Thì không sao cả. Như tôi đã nói. Tôi luôn biết là cô thông minh, nhưng thực sự cô hiểu vấn đề nhanh đấy.”

“Nó không phức tạp thế đâu. Bất cứ ai có học để có thể theo kịp anh mà…”

“Tôi không nghĩ thế đâu. Một số người chỉ có kiến thức chứ không có tư duy.”

Nói rộng ra, một người có thể nhận được hai loại giáo dục: một liên quan tới thực tế đơn giản, hay một dạy ta cách suy nghĩ. Tất nhiên, cái sau đứng một mình là vô nghĩa, nhưng chỉ chăm chăm vào cái trước thì cũng không tốt chút nào. Giống như kiểu một người có bộ sưu tập vũ khí đồ sộ nhưng lại không biết cách chiến đấu vậy: không hiệu quả lắm, và không nhiều lợi ích. Theo quan điểm đó, Fiona có một sự cân bằng xuất sắc trong giáo dục của mình. Cô ấy đã bao quát mọi thứ và học cách để trở nên chu đáo và có nhận thức.

“Thật tốt khi mà cô nhạt bén. Nói thật thì, tôi biết rất nhiều thứ, nhưng bản thân tôi không phải là một người có tư duy tuyệt vời…”

“Anh cứ đùa. Mà dù sao thì, tôi chỉ nhận được sự giáo dục người ta cung cấp ở thủ đô thôi.”

“Một số người có học có hành, nhưng chẳng bao giờ hiểu được phải làm gì với nó,” Yukinari nói. Rồi cậu chợt nghĩ: Fiona có lẽ là người duy nhất ở Friedland từng đi xa để học lên cao hơn. Có lẽ dân làng biết cô thông minh, nhưng khả năng là họ coi nó như sản phẩm thông thường của việc đi học ở thủ đô. Nếu họ ngưỡng mộ cô vì điều đó, thì cũng giống như một người đã được giáo dục ở một nơi mà, đối với họ, cũng có thể là một quốc gia xa lạ.

Khả năng là, có rất ít người ở đây hiểu được bản chất trí thông minh của Fiona. Chỉ mình Yukinari—và Dasa, có lẽ— là có thể đánh giá nó một cách công bằng.

Đây là lí do tại sao phản ứng của cô trước lời khen của cậu là sự kết hợp của ngạc nhiên, ngượng ngùng, và vinh hạnh.

Trong lúc ngẫm nghĩ những điều này, Yukinari cảm thấy một cặp mắt đang lườm cậu. Cụ thể là, cặp mắt xanh, phía bên trái. Dasa đang ngó cậu qua cặp kính, như thể đang chờ đợi điều gì đó.

“Dasa?”

Khi nghe cậu gọi tên, cô nàng lẳng lặng nhìn đi chỗ khác. Có vẻ cô gần như bĩu môi ra mặt—không phải gần như, theo cậu thấy. Đó chính xác là điều cô đang làm.

A, Yukinari nghĩ, ngay lập tức hiểu ra tình hình. Thì ra là vậy.

“Tôi có biết một vài điều về người thông minh,” cậu bảo Fiona. “Tôi đã nhận được nhiều sự giúp đỡ từ họ.” Trong lúc nói, cậu đặt tay lên đầu Dasa. Không nghi ngờ gì Dasa cũng gặp phải rắc rối tương tự như Fiona khi được công nhận đàng hoàng. Đối với Yukinari cô nàng chỉ đứng sau Jirina trong việc dạy cậu về thế giới này. Nhưng hiểu biết và sự chu đáo của cô đã quá đỗi quen thuộc khiến cậu hiếm khi nghĩ đến việc nhận xét nó.

“…Yuki.”

Dasa ngước nhìn cậu từ dưới bàn tay cậu đang luồn qua tóc. Cô không thích việc cậu dành cho Fiona quá nhiều lời khen mà không chừa cho mình một ít—hay, nói thẳng ra, cô ghen tị. Những lúc thế này bộc lộ mặt trẻ con của cô nàng. Hoàn cảnh đặc biệt trong sự nuôi nấng đã khiến cô ít nhiều không quen với hành vi xã hội chuẩn mực—kết quả là cô nàng dường như trẻ hơn về mặt cảm xúc.

“Nói chung là.” Yukinari khẽ đưa tay qua tóc Dasa, uốn một vài lọn tóc bạc trong ngón tay, bằng tất cả sự tinh tế như khi gãi cằm một chú mèo. “Tôi sẽ để cô lo phần chuẩn bị cho kênh thủy lợi. Tôi sẽ thử xem liệu chúng ta còn có thể làm gì.”

“Được thôi. Có ý tưởng gì thì cho tôi biết nhé.” Phó thị trưởng Friedland nhìn Yukinari trước, rồi Dasa, với một nụ cười hơi méo.

Hết đêm, trời lại sáng. Yukinari và những người đồng hành rời dinh thự Schillings để tới nơi ở thông thường của họ— “thánh địa” của Yukinari.

Như đã giải thích trước đó, đây là một căn nhà đơn xây ở nơi từng là thánh địa của thổ thần. Không ai biết chính xác liệu có kinh tuyến năng lượng trong đất, hay đường năng lượng tâm linh chayk qua nơi này—hay một cái gì đó khác hoàn toàn—nhưng khi á thần và ngoại thú đến kiếm thổ thần, thì đây là nơi chúng thường tới nhất. Điều đó khiến nó trở thành một điểm chốt lí tưởng nhằm bảo vệ Friedland khỏi những mối nguy tương tự, và Yukinari xét rằng rời khỏi đây lâu không phải là khôn ngoan.

“Thì ra thần thánh cũng có những vấn đề riêng của họ,” cậu vừa lẩm bẩm vừa đi bộ dọc đường chính, hướng tới cánh cổng dẫn ra ngoài thị trấn. Yukinari đã không còn hối hận việc đánh bại thổ thần, nhưng cũng phải thừa nhận rằng, ngoại trừ nhu cầu vật tế sống, thì “hệ thống” thổ thần vốn khá là hiệu quả. Chắc vì vốn được hình thành qua nhiều năm sàng lọc tự nhiên, nên nó làm tốt công việc của mình cũng là điều dễ hiểu.

“…Yuki,” Dasa bỗng nói. Cô chỉ về phía cổng. Một người đàn ông đang đứng đó. Trong một thoáng, Yukinari đã tưởng đó là người gác cổng, nhưng trang phục thì không phải. Bộ đồ xanh đó rất quen—áo choàng linh mục.

Yukinari dừng lại cách cổng vài mét. Dasa và Berta đến cạnh cậu và cũng dừng lại.

“Berta,” lão trung niên nói, bước về phía họ với nụ cười thân thiện. “Trông con ổn đấy.”

“…Dạ,” cô nói với nụ cười lặng lẽ. “Thầy cũng vậy, thưa Thầy Luman.”

Có vẻ là, họ biết nhau. Xét việc giáo sĩ cai quản trại mồ côi, cũng có thể Berta vốn đã biết mọi thầy tu trong thị trấn. Yukinari cũng đã gặp vài tu sĩ, nhưng đây là lần đầu cậu gặp lão “Luman” này. Lão tu sĩ có khuôn mặt vuông, mắt nheo, và mũi to kệch. Ấn tượng tổng thể mà lão mang lại gần như một con búp bê tạc từ gỗ—chất phác và tầm thường.

Yukinari lặng lẽ nhìn quanh. Giờ thì cậu đã thấy chúng: đám tu sĩ, đang tiến vào từ bóng tối quanh các tòa nhà, tạo thành một vòng tròn quanh Yukinari và hai cô gái. Mỗi tên đều làm mặt cứng rắn, nhưng lại không thể nhìn Yukinari khi bắt gặp ánh mắt của cậu.

Hmm…

Khi Yukinari phát hiện việc mình dính dáng vào mọi thứ liên quan tới thổ thần, ngay từ đầu đám tu sĩ đã cố bắt Dasa làm con tin. Điều này, ít nhất, khiến chúng trở thành kẻ thù của cậu. Nhưng chúng đã tự làm mình tan tác trong vụ lùm xùm với Giáo Hội Chân Chính Harris, và điều đó khiến chúng thù hằn với cậu trở nên ít rõ ràng hơn.

Đám tu sĩ tất nhiên biết rằng Yukinari chẳng có thiện ý gì với người mặc áo vải. Đó là lí do tại sao chúng để Luman, một tu sĩ cậu chưa từng gặp, dụ cậu cùng nhóm của cậu.

Mình có linh cảm xấu về việc này.

Yukinari nghĩ về Durandal vắt chéo sau lưng. Đám tu sĩ biết sức mạnh của cậu, nên không có vẻ là chúng ta tấn công đột ngột. Nhưng bởi lẽ chúng độ thể hiện ý đồ bắt cóc Dasa, chúng hiểu rằng một kẻ địch mạnh vẫn có điểm yếu có thể bị khai thác. Thậm chí là thần.

“Berta. Chúng ta đến với con hôm nay bằng sự cầu xin tha thiết. Chúng ta xin mời con cùng thổ thần đáng kính… Chúa Tể Yukinari… cùng tới trại trẻ mồ côi.”

“Con—“

Berta tìm kiếm phản ứng của Yukinari. Cô coi mình như tài sản của cậu, và có lẽ cảm thấy rằng phải để cậu quyết định.

“Berta,” Luman nói ngon ngọt. “Chẳng phải con là vu nữ sao?” Câu cú nghe mềm mại, như lời mắng yêu, nhưng rõ ràng lão không hề có ý muốn cô đáp lại. “Vu nữ sinh ra là để thay mặt cho thần. Trọng trách của con là hỏi ý Chúa Tể Yukinari cùng con tới trại mồ côi.”

Berta nhìn Luman và Yukinari, tâm can giằng xé. Những tu sĩ đã nuôi nấng cô như cha mẹ. Nuôi cô trở thành một vật tế, phải, nhưng cô đã bị nhồi nhét cho ý tưởng rằng phải luôn nghe lời. Giờ cô không thể cứ thế lờ Luman đi được.

Cũng giống như hồi Yukinari và Hatsune, chị gái ở thế giới trước của cậu, đã không thể phớt lờ mẹ họ ngay cả khi bà ta chìm đắm vào “tôn giáo mới” mà bà tìm thấy. Bố họ thì dường như đã sẵn có ý định bỏ bà ta rồi, nhưng Yukinari và Hatsune là con của bà ấy, và không thể cứ thế quên bà ta đi như quên một người lạ được.

Câu hỏi đặt ra là, chúng muốn gì?

Cậu phát bực với đám tu sĩ, với cái sự khăng khăn đòi Berta làm trung gian của chúng, nhưng tìm hiểu ý đồ của chúng cũng chẳng hại gì. Bây giờ cậu đi với chúng – không có nghĩa là cậu có ý định làm gì khác cho chúng sau này. Yukinari đã là một vị thần, và như vậy, trọng trách của cậu là tha thứ cho sự kiêu ngạo, thất thường, thậm chí là đạo đức giả.

“Luman, phải không?” Yukinari nheo mắt nói.

“Phải, Yukina—thưa Chúa Tể Yukinari.”

“Đừng có bắt Berta làm việc của ngươi. Nếu có gì muốn nói với ta, thì tự nói đi. Berta—“ Cậu ngập ngừng một lát, rồi nói thẳng: “—là của ta rồi. Cô ấy không phải công cụ của ngươi và chẳng dính dáng gì đến ngươi hết.”

“Đức Chúa Tể Yukinari…” Mặt Berta sáng rỡ lên vì lí do gì đó, còn Dasa thì nhăn mày sẩm mặt, đoạn Luman gật đầu, không tỏ vẻ khó chịu.

“Vâng, thì ra là vậy. Được rồi. Vậy tôi sẽ bắt đầu lại. Hởi Chúa Tể Yukinari, vị thần mới của quê hương xứ sở Friedland, con mạn phép yêu cầu ngài tới trại mồ côi và nghe những gì chúng con cần phải nói.”

Yukinari để chúng chờ một lát, rồi nói, “…Được.”

Nghe vậy, Luman và các tu sĩ khác xếp thành một hàng và khởi hành về phía cô nhi viện.

Berta thì thầm với Yukinari trong lúc cậu miễn cưỡng đi theo chúng. “Chúa Tể Yukinari.” Tây cô chắp lên đầu như một cử chỉ cầu nguyện đơn giản. “Chân thành đội ơn ngài.”

“Không có chi,” Yukinari nói, nụ cười nhăn nhở kéo dài trên môi cậu.

“Chị Cả Berta! Chúa Tể Yukinari! Chị Cả Dasa!”

Các “em gái” của Berta chào mừng họ tới cô nhi viện. Không một ai ở đây có gia đình cả. Cha mẹ các em đã mất, hoặc bỏ rơi các em—dù thế nào đi nữa, các em là những đứa trẻ bị lãng quên khi mà sau cùng sẽ được dâng lên làm vật tế cho thổ thần. Bởi lẽ các em bảo vệ thị trấn bằng cách thực hiện “sứ mệnh thiêng liêng” này, cuộc sống của các em được hỗ trợ phần lớn bởi sự quyên góp từ người dân thị trấn.

Mà thực ra, “từng được hỗ trợ” mới là cách mô tả chính xác nhất. Cho mọi mục đích thực tiễn, vai trò chủ đạo của cô nhi viện—sản xuất vật tế—đã đến hồi kết.

“Xin chào,” Yukinari noi. Cậu cúi xuống và mỉm cười với cô bé gặp lần trước. “Hannah, phải không? Em thế nào rồi?”

“Tuyệt à, thưa Chúa Tể Yukinari!” Bé cười khúc khích, rúc vào bàn tay cậu đưa ra như một con mèo.

“Hannah! Em không được thân thiết với Chúa Tể Yukinari như vậy—!”

“À, không sao cả đâu.” Yukinari cắt lời Berta đang định quở trách đứa em gái, rồi giơ tay phải lên, hiện đang bị Hannah bám chặt. Cô bé con reo lên thích thú, nhưng điều đầu tiên Yukinari nghĩ đến là việc cô bé thật nhẹ. Nhẹ hơn nhiều so với bề ngoài. Dưới lớp quần áo, có lẽ cô bé chỉ còn da bọc xương. Cậu cô tình nhấc cô bé trên tay lên bởi trông cô ốm yếu hơn trước—và quả thực, dường như bé đã sụt cân. Cuộc sống ở cô nhi viện chưa bao giờ là dư giả, nhưng lẽ ra không nên túng thiếu đến mức một đứa trẻ đang tuổi ăn tuổi lớn trở thành một bộ xương.

“E hèm, Chúa Tể Yukinari,” Luman nói, chỉ vào phía trong cô nhi viện. “Phiền ngài đi theo tôi. Tôi khá chắc cuộc trò chuyện của chúng ta sẽ bị lũ trẻ phá bĩnh ở đây.”

Yukinari gượng một nụ cười khi quay về phía Hannah và các em gái. “…Chắc là mình gặp lại sau nhé.” Rồi cậu hướng đến phòng Luman chỉ.

“Berta. Vu nữ của Chúa Tể Yukinari, xin mời con đi cùng ngài ấy. Phu nhân Dasa, vui lòng đợi ở ngoài đây.”

Dasa không nói, nhưng cau mày đến nhăn cả mặt. Cô nàng với cái túi để trên sàn của mình—tất nhiên bởi lẽ cô vẫn chưa quên lần bị cố bắt làm con tin trước.

“Ổn thôi mà, Dasa,” Yukinari nói. “Em chưa có dịp trò chuyện với các em gái cũng lâu rồi.” Cậu chạm vào mái tóc bạc của cô nàng.

“Em… gái…?” Dasa chớp mắt bối rối.

“Mấy đứa gọi em là ‘Chị Cả Dasa,’ phải không nào?”

“Ồ…” Cứ như thể cậu chưa nói ra thì nó chưa chính thức. Hơi lúng túng, cô nàng nhìn qua lại giữa Yukinari và Hannah cùng các em gái.

“Mình là… chị… cả?”

“Từ góc nhìn của tụi nó, phải. Mau đi chơi với các em đi.” Yukinari vò tóc cô nàng.

“…Mm.” Dasa nheo mắt hạnh phúc.

“Anh sẽ đi vào và trò chuyện. Cứ… giữ Ớt Đỏ ở gần bên, được chứ?”

“Được.” Dasa chắc chắn rằng khóa túi để mở, và Yukinari cùng Berta bước vào căn phòng kế tiếp.

“Lối này.” Luman dẫn họ vào phòng và mời họ ngồi. Có vẻ họ đang ở phòng kiểu tiếp khách hay tiếp nhận gì đó. Họ không ngồi ghế dài, mà ghế gỗ, cứng, sáu cái đặt cách đều nhau quanh một cái bàn tròn ở chính giữa phòng. Luman ngồi đối diện Yukinari; Berta thì ngồi bên phải Yukinari.

“Thế. Các người muốn gì?” Yukinari hỏi.

Luman hắng giọng, rồi đặt tay lên bàn, ngón tay đan vào nhau.

“Chúa Tể Yukinari, đã được hơn mười hai ngày kể từ khi ngài đánh bại thổ thần trước và chiếm lấy chỗ ở đây.”

“Đúng. Mười hai ngày kể từ khi đặt dấu chấm hết cho truyền thống tế sống mọi rợ của các người. Cá là ai cũng vui vì điều đó lắm.” Cậu không ngại bày tỏ sự khinh thường trong lời nói, nhưng thái độ của Luman không hề suy suyển.

“Mọi rợ… Là cách nhìn của ngài về nó sao?”

“Chuẩn mợ nó rồi. Chứ tế sống thì còn gọi là cái gì nữa?” Từ tận đáy lòng, Yukinari tin rằng nó tệ hại.

Luman im lặng một lát, như thể tìm kiếm từ ngữ thích hợp. Rồi lão nói:

“Tốt lắm. Mọi người đều có quan điểm của riêng mình về truyền thống của chúng ta, và có tranh cãi về nó lúc này thì cũng không có ích gì cả. Nhưng ít nhất, xin hãy hiểu rằng không phải ai cũng ‘vui’ trước sự biến mất của phong tục tế thần.”

“Đúng rồi. Như các người chẳng hạn.” Yukianri giữ Luman trong tầm ngắm. Thổ thần không còn cần vật tế. Vậy tức là không còn lễ lạt, không còn phải nuôi vật tế, tất cả đám tu sĩ này đều mất việc.

“Sự hiện diện của ngài đây,” Luman nói tiếp, phớt lờ sự kích bác của Yukinari, “đã làm rối loạn tôn ti trật tự trong thị trấn.”

“Ồ, tôn ti trật tự hả?”

“Phải. Tiền để chu cấp cho cô nhi viện này chẳng hạn. Nó từng được cung cấp bởi sự quyên góp từ người dân thị trấn, nhưng mất đi nhu cầu vật tế, tiền quyên góp đã thuyên giảm. Thái độ của cư dân đó là họ còn chưa chắc đã nuôi nổi mình—huống chi còn thêm mấy đứa không cha không mẹ.”

Yukinari cứng họng. Không chỉ cô nhi viện, mà cả những đứa trẻ mồ côi—cựu ứng viên cho tế thần—cũng đã mất đi lí do tồn tại.

“Và, vâng, tu sĩ chúng tôi cũng không còn chỗ đứng nữa. Giờ thì sự tôn kính thổ thần đã là dĩ vãng, tu sĩ không còn cần thiết để thực hiện nghi lễ nữa.”

“…Hiểu.”

“Ngài, Chúa Tể Yukinari, hiện là thổ thần của mảnh đất này. …Và chúng tôi mạn phép đưa ra cho ngài một đề xuất.” Luman khẽ nghiêng người trong lúc nói. Có vẻ là, lão đang đi vào trọng tâm vấn đề.

Sự thật là, Yukinari đã có một dự cảm khá tốt về diễn biễn của cuộc trò chuyện cho tới thời điểm này. Nhưng cậu muốn lão tu sĩ tự mình nói ra điều đó.

“Ở thời điểm hiện tại, ngài đưa ra mọi chỉ dẫn tới người dân thị trấn thông qua phó thị trưởng, Cô Fiona Schillings. Chúng tôi đòi hỏi rằng, trong tương lai, ngài cho phép chúng tôi làm trung gian của ngài.”

Đúng như mình dự đoán, Yukinari nghĩ. Thổ thần không còn đòi hỏi vật tế—nhưng có một nguồn sức mạnh và quyền lực mới. Chính là bản thân Yukinari. Cậu đã đánh bại thổ thần và xua đuổi Lệnh Truyền Giáo Giáo Hội Chân Chính Harris khi nó xâm lược thị trấn dưới danh nghĩa truyền giáo. Và điều này làm dấy lên ở người dân thị trấn một cảm giác thành tâm—gần như là lòng mộ đạo. Điều này thành ra tất cả mọi ngươi trừ những ai thân thiết nhất đều gọi cậu là “thổ thần đáng kính,” mặc cho sự thật rằng Yukinari không phải là thổ thần theo nghĩa đen.

Cậu đã, chính thức, thế chỗ thổ thần. Như vậy, cậu là biểu ngữ mới mà đám tu sĩ có thể nương tựa vào, theo đó bảo vệ địa vị của chúng. Chúng thấy rằng cần phải đặt mình vào giữa Yukinari và người dân thị trấn để duy trì vị trí của mình.

“Ngươi nghĩ xen vào giữa ta và cư dân thì sẽ giữ được quyền lực—phải không?” Sự thù địch lộ rõ trong giọng Yukinari, nhưng Luman chỉ bình thản gật đầu.

“Hiểu rộng ra, thì có lẽ, phải.”

Yukinari lườm Luman. Tại sao lão tu sĩ khăng khăng cho được cuộc trò chuyện này lại không ở thánh địa nơi cậu cùng các tu sĩ khác sống, mà ở cô nhi viện liền kề này? Khả năng cao là, lão đã muốn Yukinari thấy Hannah cùng những đứa trẻ mồ côi khác trước khi bàn luận. Như vậy sẽ khiến cậu dễ tiếp nhận lời thỉnh cầu của chúng hơn.

Nhưng chẳng phải điều đó, thực chất, là lấy lũ trẻ làm con tin sao? Không có vũ khí, nhưng mối nguy thì tương tự. Nếu ngươi không làm theo lời bọn ta, lũ trẻ nghèo khổ này sẽ chết đói.

Không nghi ngờ gì chúng muốn cả Berta có mặt vì cùng một lí do. Phải, giờ thì cô là “vu nữ” của cậu, và nếu cô thêm vào lời của chúng, thì vậy sẽ dễ thuyết phục cậu hơn. Và Luman, tất nhiên, biết quá rõ tâm tính của Berta: cô sẽ không bao giờ quay lưng với những đứa em gái ở cô nhi viện.

Quả thực, chính tại lúc đó Berta đang lúng túng nhìn qua nhìn lại hai người họ, trông như thể cô sắp bật khóc. Có lẽ cô không hiểu bản chất của quyền lực mà họ đang đàm phán, nhưng ít nhất cô hiểu rằng Luman muốn gì đó từ Yukinari.

Chắc có để chúng làm đại diện thì mình cũng chẳng mất gì, Yukinari nghĩ, hình dung khuôn mặt tươi cười của Hannah. Luman và những người khác không đòi hỏi điều gì đặc biệt từ cậu. Tất cả những gì cậu phải làm là nói “Được,” và chúng sẽ lại làm người thay lời của thần.

“Không, cảm ơn,” Yukinari nói. “Ta thừa nhận mình là thần của thị trấn này—nhưng ta không làm điều đó cho đám tu sĩ các người. Ta làm nó để nhận trách nhiệm cho những gì mình gây ra, và để bảo vệ những người cần bảo vệ. Ta không thể gạt đi chuyện các người có được gì từ nó hay không được.”

Cậu nhớ khi mà tôn giáo mẹ cậu gia nhập luôn vắt kiệt từng đồng của bà vì lí do này nọ. Nó không có mục đích, không thay đổi điều gì; chỉ để cống cho những kẻ kiếm sống bằng việc có liên kết với tổ chức. Không hơn không kém, vậy mà mẹ cậu vẫn vui lòng, thậm chí là biết ơn cho từng hành động đưa tiền cho đám người đó. Bà ta có niềm tin mãnh liệt rằng tiền bạc phản ánh lòng thành, và rằng bằng cách nào đó bà ta đang tích đức từ những món quà này.

Và… Yukinari bắt đầu nghĩ lại mọi thứ một lượt. Nếu để những tên này thay mặt mình, ừ, có lẽ chúng sẽ giữ được quyền lực.

Nhưng khó mà tin được tiền quyên góp để chu cấp cho cô nhi viện sẽ tiếp tục khi mà giờ vật tế đã không còn cần thiết. Tất nhiên, có thể rằng với sự an toàn và kế sinh nhai được bảo đảm, Luman và đám tu sĩ còn lại sẽ dùng những tài nguyên dư ra để chăm sóc lũ trẻ mồ côi. Nhưng ý đồ sử dụng Hannah và các chị em của bé như một vật nặng cho thấy khả năng cao đám tu sĩ coi những em gái cùng lắm cũng chỉ như phương tiện. Cho dù Yukinari có chấp thuận yêu cầu của chúng, thì cũng không hẳn sẽ giải quyết được gốc rễ vấn đề.

“Ngài chắc chứ? Không có cách nào đổi ý được sao?” Luman nghiêng đầu vẻ thắc mắc. Hay là vì lão cảm nhận được sự do dự và xung đột trong nội tâm Yukinari, thấy rằng chỉ một cú thúc nữa, cậu sẽ đầu hàng…

“Quên đi. Ta đã bảo không rồi.”

Có một sự im lặng bên cạnh cậu. Khi Yukinari liếc sang, cậu thấy Berta đang nhìn xuống đất, run rẩy. Cô bị kẹt giữa cậu và Luman và giờ không biết phải làm gì. Yukinari nắm tay cô và đứng dậy, rồi ngoái lại chỗ lão tu sĩ một lần. “Ta muốn làm cho tõ. Như đã bảo với ngươi: Ta không làm thần thánh để các ngươi có cái bỏ vào mồm.”

“Và đã rõ nhất có thể. Một sự ô nhục, thưa Chúa Tể. Một sự ô nhục thảm hại.” Giọng lão ta rời rạc. Sự bình thản của lão không có vẻ suy suyển dù bị từ chối thẳng thừng. Chỉ càng khiến cho Berta khó mà ở lại đó. Bỏ lại Luman ngồi ở bàn, Yukinari nắm tay Berta thật chặt và kéo cô ra ngoài.

Ngay khi họ trở về “thánh địa” nơi họ sống thì Berta liền quỳ mọp xuống chân Yukinari.

“Lời xin lỗi chân thành nhất của em!”

“Oa! Cô đang làm gì vậy?!”

“Berta…?”

Họ còn chưa kịp vào nhà hết; vẫn còn ở trước cửa. Yukinari và Dasa cứ bước vào như bình thường, trái lại Berta lại đang phủ phục phía sau họ, không ngừng tuôn ra những lời xin lỗi. Có vẻ là, cô cảm thấy không ổn khi đặt chân vào thành địa chừng nào chưa nhận được sự tha thứ của Yukinari.

“Hãy… tha thứ cho em…”

“Tha thứ gì cơ? Vụ cô nhi viện hả?” Trong tâm trí, Yukinari nhớ lại Hannah và lão tu sĩ, Luman.

“Vâng, thưa Chúa Tể!” Berta thậm chí còn chẳng đưa mặt ra khỏi đất trong lúc trả lời.

“Đâu phải là lỗi của cô đâu. Đứng dậy đi nào. Cô biết tôi không thích kiểu này mà.”

“Nhưng…” Với Berta, việc Yukinari nổi giận đều do cô mà ra cả, và cô thiết tha mong rằng cậu sẽ không trừng phạt Hannah và các tu sĩ.

“Rồi, này nhé,” Yukinari nói, cúi xuống chỗ Berta và nắm lấy vai cô ấy. Cậu ép cô phải đứng dậy, có chút phiền muộn hỏi, “Chính xác thì cô nghĩ tôi là gì hả?”

Bộ cô ta tưởng cậu là kẻ sẽ giết bất cứ ai làm cậu bực bội chút xíu à? Cậu là ai chứ, ác quái phương nào chăng?

“Ngài… Ngài là vị thần tôn kính nhất của em, Đức Chúa Tể Yukinari.” Mắt cô rớm lệ nhìn cậu.

“Ừ,” cậu nói hơi bực bội, “đúng như tôi nghĩ.”

Các vị thần có thể bất chợt thích thì đưa ra hình phạt thần thánh. Với Berta, có vẻ hiển nhiên rằng Yukinari sẽ đả kích Luman vì yêu cầu quá đáng của lão. Không như thế giới trước của Yukinari—không như Nhật Bản hiện đại—thế giới này thiếu hẳn đi luật lệ hay quy ước xã hội phổ biến chung. Ngay cả khi những thứ đó tồn tại, đoán chừng chúng cũng không áp dụng cho thần, những cá thể vượt xa nhân loại.

Tại đây, xáo trộn bầu không khí của một vị thần cũng đủ để bị xuống địa ngục. Chọc giận thần thánh, là rước họa vào thân: đây là một thực tế không lay chuyển như việc đồ vật rơi khi ta thả chúng, hoặc đứng trước ánh sáng sẽ bị đổ bóng.

“Nói chung là, tôi sẽ không giết mấy người đó đâu.” Yukinari kéo tay Berta và lôi cô vào thánh địa. “Với cả nếu tôi không thấy phiền, thì chắc chắn cô cũng không nên thấy phiền đâu.”

“Nhưng, thưa Chúa Tể—“

“Đừng lo về chuyện đó. Hãy coi đây là mệnh lệnh của thần đi”

Yukinari không chắc liệu có nên cảm thấy bực hơn không khi Berta chấp nhận điều này gần như ngay lập tức. “V-Vâng, thưa ngài. Em sẽ… sẽ không lo về nó nữa.”

Giá mà dễ dàng như vậy thì tốt. Nếu chỉ cần lời nói để thay đổi cảm xúc, thì sẽ chẳng có vấn đề gì cả. Nhưng nếu cậu bỏ mặc cô ấy theo ý mình, khả năng cao Berta sẽ ngày càng bị trầm cảm dưới mặc cảm tội lỗi tự gây ra.

Yukinari đặt Berta trên ghế dài trong thánh địa, quyết định sẽ nghe nốt những những cô phải nói. Nếu lạy lọc và xin lỗi khiến cô cảm thấy tốt hơn, thì có lẽ cậu nên để mặc. Cơ mà…

“Em tin những điều… những điều Luman nói… có gì đó thích đáng,” cô nói.

“Cô nghĩ có điều thích đáng trong việc để các em gái bị ăn thịt để đổi lấy phước lành của thần sao?” Giọng Yukinari trở nên cộc cằn trước khi cậu nhận ra—khi cậu thấy Berta lúng túng thu mình lại, cậu vội vàng phân bua. Như đã nói, dù tốt hay xấu, Yukinari là vị thần cô thờ phụng. Cô đã cầu xin sự tha thứ của cậu đơn giản vì Luman và đám tu sĩ làm cậu bực. Nếu chính bản thân cô làm cậu nổi giận, thì chẳng biết liệu cô ấy sẽ làm gì nữa.

“Em… Em được nuôi nấng ở cô nhi viện đó,” Berta nói sau khi bình tĩnh lại. “Hannah, các cô gái khác—họ như chị em của em, và những thầy tu thì giống như cha đ…”

Với Berta, người vốn không có gia đình, những vị thầy tu và các đứa trẻ mồ côi khác cũng vô giá như máu mủ, cho dù cô đã từng là sản phẩm của một hệ thống mà sẽ đem cô làm vật tế.

“Chúng em không có cha mẹ. Nếu đã không được chọn làm vu nữ, hẳn chúng em đã chết ở đầu đường xó chợ hay nơi không tên nào đó…”

“À thì… Ừm, anh nghĩ em nói đúng.”

Trong thời gian ở đây, Yukinari đã hiểu ra rằng Friedland không phải một thị trấn giàu có. Chắc chắn không đủ giàu để người dân thị trấn chu cấp cho một cô nhi viện đầy ắp những cô gái chỉ đơn giản là từ lòng tốt của trái tim họ. Không một dân làng nào gặp nguy cơ chết đói ngay, nhưng cũng không ai có thừa tài nguyên để chăm sóc cho những kẻ không cống hiến. Dinh dưỡng kém đồng nghĩa với bệnh tật gia tăng, và khó khăn để lành bệnh. Nói cách khác, sẽ chỉ có một cái chết chậm rãi, mòn mỏi đang chầu chực.

“Giờ thì chúng ta không cần vu nữ, sẽ không còn sự quyên góp nào cả… Và không có quyên góp, cô nhi viện không thể tiếp tục. Hannah và những người khác rút cục sẽ phải ra đường…”

Thẩm quyền của tu sĩ bị phủ nhận, cũng như quyên góp cho cô nhi viện. Khả năng là, điều đầu tiên dám tu sĩ sẽ làm để tự cứu lấy mình là cắt bóp cô nhi viện.

“Hiện giờ, những cô gái đang sống bằng khẩu phần tích lũy… Nhưng em không nghĩ cô nhi viện sẽ cầm cự được lâu nữa…”

Và rồi lũ trẻ sẽ không có nơi để đi. Cũng như Berta, khi đã không được hiến tế, không còn chốn nào để về.

“Điều cô muốn nói là, cô muốn tôi chấp thuận yêu cầu của đám tu sĩ đó.”

Berta không nói tiếp. Cô không thể cất lời.

Yukinari nhìn lại về hướng Friedland và lẩm bẩm, “Ai mà biết làm thần lại đau đầu thế này cơ chứ?”

Arlen Lansdowne dính kiệt sức.

“Thảm hại,” hắn lẩm bẩm. Hắn đã than phiền như vậy bao nhiêu lần chẳng biết. “Hoàn toàn… thảm hại…”

Không phải thể chất, mà sự mệt mỏi tinh thần khiến hắn khốn khổ. Mặc dù bị suy sụp, hắn vẫn là thành viên của Đoàn viễn chinh Khai hóa của Lệnh Truyền Giáo. Sự huấn luyện mà hắn đã nhận được trong năm ngay sau khi gia nhập Lệnh khiến cơ thể hắn tương đối khỏe mạnh. Lệnh đi lại bằng ngựa, nhưng họ phải có khả năng chiến đấu trong bộ giáp sắt, nên không thể ốm yếu được.

“…Nghĩ đến việc ta—đến cả ta mà—!”

Những gì hắn ta đang cảm thấy khác hoàn toàn so với sự mệt mỏi tuyệt vời theo chân mỗi ngày luyện tập tại thủ đô. Sự mệt mỏi của cơ thể có thể được khỏa lấp với một giấc ngủ ngon, nhưng về tinh thần thì khó mà thoát khỏi; như thể bị sa lầy trong bùn bám vậy.

“Ta, một hiệp sĩ đầy tự hào của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris!”

Giờ thì hắn đang ở biên giới, tịa Friedland, liên tục bị bao phủ bởi đất bẩn và bụi bặm, làm từng cái nhiệm vụ tầm thường, bị sử dụng cẩu thả như một miếng giẻ cũ. Và cuối ngày, hắn sẽ ngủ ở đâu? Chốn tồi tàn mang tên “nhà thờ.”

Arlen và người của hắn đã mạo danh cải đạo Friedland vào Giáo Hội và hiện đang ở đây để chỉ dẫn mọi người—nhưng sự thật là, dù các hiệp sĩ không đeo cùm, họ vẫn bị đối xử như nô lệ. Với Arlen, đứa con quyền quý, đây là một sự suy giảm thứ bậc khiến hắn phát rồ. Các hiệp sĩ khác phần nhiều có chung cảm nhận.

“Nguyền rủa hắn… Mẹ kiếp tên ‘Thiên Thần Xanh’ đó!”

Các nhà truyền giáo đã đến tận Friedland để truyền bá những giáo lí chân chính và đúng đắn từ trong lòng dân chúng dốt nát. Đây vốn là nhiệm vụ của họ, và nó thật vinh quang. Hắn tin, hoặc đã từng tin là vậy. Nhưng sau cùng khi đến địa điểm của nhiệm vụ, họ đã bị sốc khi thấy công việc của mình bị phá vỡ bởi “Thiên Thần Xanh,” kẻ thậm chí phá hủy công cục vĩ đại nhất của họ, tượng thánh bảo hộ.

Rồi Fiona Schillings, cựu đồng môn ở thủ đô của Arlen và hiện là phó thị trưởng của Friedland, đã tống tiền họ, khiến họ kẹt ở đây. Cho dù có thể trốn thoát và trở lại thủ đô, chắc chắn họ sẽ trở thành những vật thí mạng cho sự mất mát của tượng. Tốt nhất là, họ sẽ sống quãng đời còn lại như một trò hề; Còn rủi nhất, họ sẽ bị xét xử và kết tội.

“Nhà ngươi… nhớ lấy. Ta thề… ta thề, một ngày ta sẽ…”

Lặp lại từng câu như một lời nguyền, Arlan lê thân tàn về căn nhà nhỏ hẹp—à không, nhà thờ. Năm hiệp sĩ khác, trong nhiều tình trạng kiệt sức, theo hắn.

“Này—mấy người kia.”

Một giọng nói gọi họ trong đêm, và họ dừng lại. Tiếng gọi đến từ con hẻm chật hẹp giữa hai tòa nhà—từ mấy tu sĩ của giáo phái bản địa Fredland.

Đám hiệp sĩ nhướn lông mày cùng lúc, nhìn đám tu sĩ đầy thắc mắc. Tôn giáo địa phương vốn cạnh tranh trực tiếp với Giáo Hội Chân Chính Harris; họ cùng chung một thứ đến tầm ganh đua nghề nghiệp. Vậy thì chúng muốn gì với Arlen và những người khác? Và tại sao lại phải tốn công đến vậy để tránh bị nhìn thấy?

Người có vẻ là lớn tuổi nhất trong các tu sĩ cúi chào nhóm của Arlen đầy kính cẩn. Lão nhìn quanh, chắc rằng không còn ai khác ở đây, rồi bước một bước ra ngoài con hẻm. Cuối cùng, lão lên tiếng:

“Chúng tôi tha thiết muốn nói chuyện với tất cả các hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris.”

Sáu hiệp sĩ nhìn nhau lặng lẽ. Họ chẳng biết liệu đám tu sĩ có thể muốn gì. Bộ chúng định trả thù cho sự đối xử như nô lệ của những kẻ truyền giáo với người Friedland lúc mới đến sao? Nhưng trên mặt đám tu sĩ chẳng hề có nét giận dữ hay thậm chí là chế nhạo.

Thế, là gì?

Người đàn ông từng là cấp trên của Arlen không còn ở đó nữa. Anh ta được cho là đã chuyển sang làm việc khác, và Arlen xếp hạng cao nhất trong số những người còn lại.

Arlen dành một khoảnh khắc suy tư đau đớn. Rồi hắn nói, “Bọn ta sẽ nghe những gì các ngươi cần phải nói.”

Dù chuyện gì đang xảy ra, cách người ta đối xử với họ khó có thể tệ hơn được nữa. Arlen chắc có chấp nhận cũng chẳng mất gì.

Có một sự xông lên mờ nhạt.

“Mn…”

Yukinari lướt ngón tay trên mí mắt khép chặt của Dasa. Lần hồi lần hồi. Cẩn thận, nhẹ nhàng, như thể đang cù những đầu mí của cô nàng.

Khi Dasa bối rối, thì không tài nào kiểm tra mắt cô được—cho dù cậu có ép mở mí mắt, thì cũng sẽ thấy chúng đảo điên loạn. Thay vào đó, cậu nhẹ nhàng mát-xa xung quanh mắt để làm ấm chúng. Một lát sau cậu có thể quan sát chúng thật gần, màu xanh của chúng choán lấy tầm nhìn của cậu.

Mắt kính để sang một bên. Chậm rãi, vô cùng thận trọng, cậu nhấc mí mắt bên phải. Không gì nằm giữa mắt hai người họ. Cậu nhìn nó tỉ mỉ, nhưng không thấy quầng. Không có dấu hiệu viêm. Con mắt dường như đã chấp nhận hoàn toàn thấu kính nhân tạo cậu chế tạo rồi đưa vào điều trị đục thủy tinh thể của cô nàng.

“Yu… ki…” Dasa ngọ nguậy phần từ cổ xuống. Yukinari giữ đầu cô trong tay, để cô không thể tự do di chuyển nó. Cô nàng xê dịch thân dưới vài lần, như thể tìm một cách thoải mái để đặt nó.

“…Xấu… hổ quá…”

“Sao cơ?” Cậu bỏ mí mắt phải ra, rồi đặt ngón cái lên bên trái. Một lần nữa cậu rê nó nhè nhẹ bằng đầu ngón tay của mình.

“Kính của em…”

Tay phải cô với tới chỗ để kính bên cạnh. Có vẻ là, cô nàng cảm thấy kì quặc khi bị ai đó nhìn thẳng vào mắt. Miếng thủy tinh trong suốt đó không có nhiều ý nghĩa với Yukinari, nhưng với Dasa thì có.

Nghĩ về chuyện đó thì, Hatsune cũng không thích bị nhìn thấy lúc không đeo kính…

Nếu đã quen với việc đeo kính mọi lúc, thì hợp lí thôi khi mà bạn cảm thấy xấu hổ trước việc bị ai đó nhìn thẳng vào mắt trần của mình, hay thậm chí chạm vào mí mắt hoặc thở vào nó. Nói vậy, đây không phải lần đầu cậu kiểm tra mắt Dasa như thế này. Yukinari tự thấy mình mong rằng cô sẽ cứ thế chấp nhận nó.

“Em biết là sẽ khó chịu mà. Kiên nhẫn chút đi.”

Mặt họ gần nhau tới mức có thể cảm thấy hơi thở của đối phương. Nếu Dasa đeo kính, hơi thở của Yukinari sẽ làm mờ chúng. Chúng sẽ chỉ tổ gây vướng víu.

Cậu kéo mí mắt trái mở ra bằng một lực nhất định. Một con mắt xanh, trong veo nữa nhìn thẳng vào cậu. Cậu thấy không vấn đề gì cả.

“Em đang ở tình trạng tốt đấy.” Cậu bỏ tay khỏi khuôn mặt hơi đỏ của Dasa. “Không có thay đổi nào đáng kể. Mọi thứ vẫn ổn chứ?”

“…Vâng, em nghĩ. Là mình ổn.” Cô cầm lấy kính và đeo chúng lên. Cô chớp mắt hai, ba lần. Vậy là đủ để đôi mắt ẩm ướt, đẹp đẽ của cô nàng trở lại bình thường. “Nhưng Yuki, anh thì… không ổn, phải không?”

Câu hỏi đến rất bất chợt.

“Ai cơ, anh á?”

“Cuộc nói chuyện… với Berta… chiều nay,” cô nói, nhìn phía bức tường.

Phía bên kia bức tường đó là phòng Berta. Ở đó cô đã buồn ngủ mất—có lẽ mệt mỏi vì mọi thứ xảy ra buổi sáng hôm ấy.

“Em… lo cho cô ấy à?”

Cũng như Yukinari là người duy nhất có thể đọc biểu cảm củ Dasa, Dasa có khả năng nhận ra rất nhiều thứ từ vẻ ngoài và cử chỉ nhỏ nhặt của Yukinari. Là người biết cậu lâu hơn bất cứ ai trên thế giới này, điều đó không có gì khó hiểu cả.

“Anh.. Em biết anh ghét tôn giáo đến mức nào mà. Không phải tôn giáo cụ thể nào, mà nói chung.”

“…Em biết.” Một lần nữa đằng sau cặp kính, đôi mắt xanh của Dasa hướng xuống đất.

“Mẹ anh bị hút vào tôn giáo, dành đủ mọi loại tiền vào nó. Bà ta đã ép anh và chị gái tham gia cùng bà. Thậm chí bà còn muốn chị gái anh làm tình nhân của người sáng lập—em tin được không? Sẽ tốt cho cả con nữa, bà ta bảo. Sẽ thật tuyệt vời. Con được sinh ra để làm tình nhân của ngài ấy. Người mẹ máu mủ của anh đã nói ra những thứ nhảm nhí đó với khuôn mặt không đổi sắc.”

Cậu, tất nhiên, đang nói về thế giới trước của mình. Nhưng đây không phải lí do duy nhất khiến Yukinari căm thù tôn giáo.

“Và rồi anh tới đây… và Giáo Hội đã tước đoạt Jirina khỏi anh.”

“…Ừm,” Dasa khẽ gật đầu nói. Là chị em, họ đã rất gắn bó. Họ trông không giống nhau lắm—nhưng cho dù có không chung một dòng máu, thì họ hiển nhiên vẫn là gia đình. Nhưng Jirina đã bị giết với tội danh phản bội Giáo Hội, còn Yukinari thì bị cái chết chia cắt khỏi chị gái khi hai người họ suy tàn trong đống lửa.

Chị gái của cậu đã từng quan trọng hơn bất cứ ai trên đời này. Tương tự, cậu và Dasa cũng vậy.

“Anh không quan tâm tới niềm tin cá nhân của bất cứ ai,” cậu bắt đầu nói với một nụ cười cay đắng. “Tin, không tin, là lựa chọn của mỗi người. Rất nhiều người dường như tìm thấy yên bình trong tâm bằng cách tin vào Chúa. Nhưng khi người ta cố áp đặt niềm tin của mình vào người khác—Anh khinh. Và đến mức dành quyền lực, tiền bạc, hay điều khiển người khác? Nói mà cục tức như sắp trào ra khỏi họng.”

“…Ừm.”

“Đó là lí do anh từ chối chúng. Vì một chút quá khứ cá nhân. Nghĩ—“ cậu nhún vai và bật cười mỉa mai. “—đến việc làm một điều như thế, khi mà bản thân đang được thờ phụng như một vị thần. Thế gian đôi khi là một chốn méo mó, nhỉ?”

“…Yuki…” Dasa vươn tay ra chạm vào má cậu.

“…Dasa?”

Chạm vào người khác là cách để Dasa chắc rằng họ thực sự ở đó. Cô thường làm vậy, ngay cả trong những cuộc trò chuyện nhàm chán hàng ngày. Nhưng thế này…

Không một lời, cô đặt ngón tay vào môi cậu, như thể nói rằng không cần phải ép ra một nụ cười nữa.

“Nếu chúng ta có thể thiết đặt hệ thống dẫn nước, cải thiện đất trồng, họ sẽ cần nhiều người làm hơn. Khi thu hoạch tiến triển—khi Friedland giàu hơn—rồi thì có lẽ họ sẽ có dư tài nguyên để chăm sóc những đứa trẻ mồ côi.”

Nhưng đó không phải là một câu hỏi đơn thuần về số và lượng. Người ta cần một mức độ thoải mái nhất định trong cuộc sống trước khi có thể nghĩ đến việc bảo vệ người thiếu thốn, giúp đỡ họ, chăm sóc cho họ. Nếu không đạt tới mức độ ấy, cách duy nhất chỉ còn bằng cách nào đó ép họ phải giúp. Bằng tôn giáo, chẳng hạn. Giúp đỡ người thiếu thốn như vậy về nguyên lí là tốt, bởi nó sẽ tích trữ đức hạnh—như những người theo đạo Phật tin vào sự bố thí.

Tại đây, Yukinari là một vị thần. Nếu cậu ra lệnh, có lẽ người ta sẽ giúp chu cấp những đứa trẻ ở cô nhi viện, cho dù nó liên lụy đến cuộc sống của chính họ. Nhưng cậu biết về lâu dài nó không giải quyết được điều gì cả.

“Sau cùng anh sẽ nghĩ ra điều gì đó thôi. Cơ mà..”

“… Sẽ mất… thời gian,” Dasa nói. Và cô nói đúng. Yukinari có lẽ đang chọn cách tốt nhất, nhưng sẽ đòi hỏi một lượng lớn thời gian. Và nếu không có thổ thần để bảo đảm ít nhất một vụ đàng hoàng, có khi mùa màng sẽ thất bát vào năm tới. Vậy tức là sẽ bắt đầu lại từ con số âm. Quá trình không thể không mất thời gian được.

“Yuki,” Dasa nói như thể vừa nảy ra điều gì đó. “Nếu anh sử dụng… sức mạnh tái cấu trúc vật lý thì sao?”

“Ừ, anh đã nghĩ về điều đó,” Yukinari nhăn mặt nói. “Nhưng anh không nghĩ mình có thể liên tục tạo ra lúa gạo, hay thứ gì đó ăn được, trong thời gian dài.”

Sức mạnh của Yukinari bị hạn chế theo một vài cách. Cậu chỉ có thể tái cấu trúc một lượng vật chất nhất định tại một thời điểm, và để làm điều đó trước hết cậu phải suy giảm thứ gì đó khác thành bụi, lưu trữ thông tin bên trong nó.

Kĩ năng của cậu tiêu tốn thông tin. Để không ngừng tạo ra thực phẩm, cho dù bản thân có thể duy trì, cậu sẽ phải gây mòn khu vực quanh làng thành một hoang mạc.

“Một… câu hỏi về năng suất,” Dasa nói. “Vậy nếu… anh tạo ra thứ gì… có giá trị thì sao? Như kim loại… quý?”

Đây hẳn là một ý tưởng hoàn toàn hiển nhiên với Dasa, người học việc của một nhà giả kim thuật. Bản thân Yukinari cũng dạng như một thiết bị giả kim sống. Cậu có thể tạo ra vàng bạc, nếu muốn. Cậu có thể trở thành người giàu có chỉ sau một đêm.

“Một núi vàng bạc lúc này sẽ không giúp Friedland nhiều đâu.”

Vàng được dùng làm tiền tệ bởi nó tương đối bền và dễ sản xuất. Nhìn theo góc độ khác, nó chưa từng được đánh giá cao cho bất kì kết nối trực tiếp, đáng kể nào với nhu cầu cơm ăn, áo mặc, chốn ở của con người. Nó không xua cơn đói; cũng không làm vơi cơn khát. Chắc chắn là không thể trồng cây với nó. Tất cả vàng trên giới này cũng chẳng giúp gì được mấy thành phố tỉnh lẻ này.

Dasa đã lớn lên ở một thành phố lớn, tại thủ đô. Cô đã bị cách li khỏi chị gái, đúng vậy, nhưng hàng hóa vật chất thì phong phú, và cô quen với việc dùng vàng bạc làm tiền. Trong vô thức, cô tin rằng tiền bạc gần như có thể mua được mọi thứ.

“Những tên khốn Giáo Hội đó cũng có thiên thần,” cậu thêm vào, “nhưng chúng không loanh quanh việc làm ra kim loại quý. Bởi lẽ tiền kết nối chặt chẽ với hệ thống xã hội—làm một đống ra, và ta sẽ làm hỏng mọi thứ nhiều hơn ta tưởng.”

Nếu cậu dành toàn bộ sức lực vào việc tạo ra vàng, chẳng hạn, giá trị của nó sẽ giảm nghiêm trọng—nó sẽ không còn đủ hiếm để làm tiền tệ đại diện. Nền kinh tế sẽ rơi vào khủng hoảng.

Và hơn mọi điều khác, sử dụng sức mạnh theo cách đó chẳng khác nào bảo Giáo Hội rằng một thiên thần hoặc một nhà giả kim mạnh mẽ đang ở khu vực này. Điều đó sẽ dẫn những tên truyền giáo tới chỗ họ, với số lượng còn lớn hơn nhiều so với đám Arlen. Yukinari thì hoàn toàn hạnh phúc chiến nhau với chúng, để trả thù cho Jirina, nhưng cậu còn phải bảo vệ Dasa, và Friedland… Một mình cậu sẽ không thể kham nổi.

“Từ góc nhìn rộng, thị trường và trao đổi là một loại mạng lưới thông tin…”

Rồi cậu ngừng lại, có điều gì đó len lỏi vào tâm thức của cậu. Tiền tệ. Trao đổi. Góc nhìn rộng. Sự tạo ra và điều khiển giá trị. Lùi lại một bước, nhìn bức tranh toàn cảnh…

Cậu và Dasa gần như thốt lên cùng một lúc:

“Yuki. Vậy còn buôn bán?”

“Hiểu rồi! Buôn bán chính là đáp án!”

Họ nhìn nhau ngạc nhiên, tròn mắt.

“Chúng ta không nhất thiết phải giới hạn ở Friedland—và không nhất thiết phải nghĩ hẹp ở phạm vi các tuyến giao thương của thủ đô.”

Đột nhiên, cậu mỉm cười ôm chầm lấy Dasa.

“Y-Yuki…?”

“Dasa, em giỏi lắm! Cảm ơn! Giờ thì ít nhất chúng ta cũng có cái để thử!”

Mắt kính cô hơi vẹo đi, Dasa làm một biểu hiện lúng túng khó hiểu, mặt đỏ bừng. Nhưng liệu là vì vui hay không vui, Yukinari, đang ôm cô, cũng không thể thấy.

“Em… có ích chứ…?” Dasa hỏi, ngập ngừng đưa tay thành một vòng tròn trên lưng Yukinari.

“Có ích? Hoàn hảo chứ! Cảm ơn em nhiều lắm!”

Yukinari là một thiên thần, và là thần của Friedland, nhưng linh hồn cậu vẫn là của con người—quả thực, một cậu trai trẻ. Quá dể dàng để cậu dính chặt lấy thứ ở ngay trước mắt, mà quên lùi lại một bước. Cậu vốn đã hoàn toàn tự gắn mình vào việc khiến cho Friedland trở nên thịnh vượng hơn.

“Chúng ta vẫn còn tấm bản đồ mang theo khi chạy trốn khỏi Giáo Hội, phải chứ? Đó là một tấm tỉ lệ lớn và không chi tiết lắm, nhưng chắc sẽ giúp chúng ta tìm đối tác buôn bán.”

“…Ờm, Yuki.”

“…Hửm?”

“Bỏ… Mà không, đừng, nhưng xin hãy… nhẹ nhàng thôi…”

Yukinari nhận ra rằng vì quá phấn khích với ý tưởng này, cậu gần như đã nghiền nát Dasa với cái ôm của mình.

Chính tại thời điểm Yukinari đang ôm Dasa đầy hứng khởi ấy, Arlen và vài hiệp sĩ khác của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris đang ở tòa nhà nơi đám tu sĩ sống. Một số nhà truyền giáo đã lùi bước trước ý tưởng gặp gỡ các đại diện của đức tin địa phương mà đáng lẽ ra phải chống lại, nhưng Arlen thì đã hơn cả sẵn sàng để nghe đám tu sĩ này. Chỉ là hắn hết sức chịu đựng với việc lao động như nô lệ. Hắn sẽ làm bất cứ điều gì nếu nó có thể thay đổi hoàn cảnh của hắn.

Cuộc trò chuyện quay vòng một lát, hai bên lên tiếng lịch sự chào hỏi nhau và thủ tục lấy lệ. Cuối cùng, sau một khoảng lặng, một tu sĩ lên tiếng:

“Hãy để tôi đi vào vấn đề. Tên thổ thần—mà không, ác quỷ đó, ‘Yukinari.’ Chúng tôi muốn giúp các người tiêu diệt hắn.”

Lời này khiến phe truyền giáo xì xào. Hầu hết họ có lẽ chẳng tin nổi điều mình vừa nghe. Arlen nghi ngờ sự tỉnh táo của lão trước mặt hắn. Có lẽ việc mất đi quyền lực đã đẩy những nhà văn hóa bản địa này đến bờ vực.

Nhưng đám tu sĩ thì lại có vẻ mong đợi phản ứng này. Chúng cười như thể đây chính là điều chúng muốn. “Chúng ta tuân theo những giáo lí khác nhau, nhưng giống nhau ở chỗ đều bị tên ‘Yukinari’ này đẩy vào tình thế ngọn nến lung lay trước gió. Do đó, bên tôi đã quyết định kết thúc hắn.”

Logic này khá đơn giản. Yukinari đã đánh bại thổ thần, đồng nghĩa với việc tu sĩ, những kẻ phụ thuộc vào thần thánh, mất đi thẩm quyền của chúng. Bởi vậy chúng muốn giết Yukinari, tạo khoảng trống để thổ thần mới tới Friedland. Khác với Giáo Hội Harris chúng có thể gọi Yukinari là ác quỷ, nhưng ý chúng là hắn ngáng đường chúng, và chúng có ý định loại bỏ cậu.

“Ngươi xem nhẹ việc này quá đấy!” Arlen la lối. “Hắn là một thiên thần thực thụ! Một con quái vật! Đến cả tượng thánh bảo hộ còn không địch nổi hắn—nhà ngươi thì có thứ gì mạnh hơn chắc?”

Arlen chửi rủa sự tồn tại của Yukinari. Trong lúc vất vả đi làm mỗi ngày, hắn dành thời gian tự nhủ rằng rồi một ngày hắn sẽ khiến Yukinari—nguyên nhân của tất cả— phải trả giá. Nhưng nó giống như là cách để hắn sống qua ngày hơn là một giải pháp thực sự. Hắn không thực sự tin rằng có bất kì cách nào để đánh bại Yukinari.

“Mà tên khốn đó là—“

Hắn nuốt lại lời trước khi nói ra điều không nên.

Thiên Thần Xanh. Yukinari đã sát hại Dominus Doctrinae tiền nhiệm. Nó xảy ra ngay tại thủ đô, giữa hàng ngàn hiệp sĩ truyền giáo và hàng vạn tín đồ. Và sau đó, họ còn chẳng bắt nổi hắn. Hắn đã tẩu thoát.

Trong trận chiến một đối một, Yukinari có lẽ là bất khả chiến bại. Nhưng nếu có cả một binh đoàn tượng bảo hộ, thì có lẽ sẽ xoay sở được gì đó—cơ mà bản thân đám hiệp sĩ, dù được huấn luyện và trang bị đến đâu, cũng chỉ là người trần mắt thịt, và chẳng có hy vọng gì đánh bại kẻ địch này. Chúng sẽ chết, và chết ngay tắp lự.

“Dù thế nào đi nữa, đây không phải trò cười đâu,” Arlen hét. “Bọn ta từ chối!” Hai tên hiệp sĩ gật đầu, nét mặt đầy kinh hãi.

“Thảm hại!” Giọng một người đàn ông khác xen vào cuộc thảo luận, như để chế ngự các hiệp sĩ nhụt chí. “Và các ngươi gọi mình là thành viên của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris vinh quang sao?!” Một hiệp sĩ đứng dậy khỏi ghế, và đang nhìn xuống Arlen và những người khác.

“A-Arnold…?”

Tên gã là Clifton Arnold. Điểm huấn luyện đã đặt hắn dưới hàng Arlen trong thứ bậc của Lệnh Truyền Giáo—nhưng gia đình quý tộc nơi hắn xuất thân thì cũng danh giá như của Arlen. Chỉ xét đến thứ bậc của mỗi người trong Lệnh cũng để Arlen khinh thường Clifton, nhưng gã thì coi nhẹ điều đó, và họ đã ẩu đả nhiều hơn một lần.

Cấp trên của họ nhanh chóng mệt mỏi vì điều này, và đã nỗ lực giữ Arlen và Clifton cách càng xa nhau càng tốt, ngay cả khi họ được chỉ định vào cùng đơn vị. Hồi chuyến thăm của họ tới Friedland, Arlen thuộc nhóm triệt hạ thổ thần, trái lại Clifton ở trong thị trấn để giúp giáo điều đám ngu dân—ấy là, giúp đặt vòng vào cổ họ.

Vậy tức là Clifton đã không tận mắt chứng kiến—chứng kiến Yukinari thản nhiên phá hủy tượng thánh bảo hộ, thứ được coi là vũ khí tối thượng của các nhà truyền giáo. Không nghi ngờ gì sự phản cảm của Clifton đối với Arlen khiến gã tin rằng chính Arlen và đám hiệp sĩ của hắn đã không sử dụng tượng đúng cách. Quan điểm của hắn, nói cách khác, không phải Yukinari mạnh mà là Arlen yếu.

“Chúng ta đang phải xử lí một thiên thần đấy!” Arlen nói.

“Và thế đã khiến ngươi vãi ra quần rồi sao? Thiên thần—pfeh.” Giọng Clifton đều đều. “Nếu trông nó giống người, thì nó sẽ chảy máu giống người, và nếu cắt đầu thì nó sẽ chết như người thôi.”

“Nếu nghĩ đơn giản như vậy, thì sao ngươi không làm nó đi?” Arlen cảm tưởng đống bã đậu trong đầu Clifton khiến hắn sắp ói mửa đến nơi. Điều này đến từ một gã chưa bao giờ có một ý tưởng mới lạ, chưa bao giờ thử một nước đi táo bạo trong đời, mà chỉ vui vẻ làm theo mệnh lệnh. Tất nhiên gã sẽ thể hiện cái sự bốc đồng của mình như là sự sẵn lòng nắm bắt cơ hội. “Chúng ta không thể thắng nổi thứ đó,” Arlen nói tiếp. “Ngươi là đồ ngu, Clifton Arnold, một thằng ngu toàn diện! Chúng ta chẳng thể làm gì để chống lại thứ đó đâu! Ngươi chẳng biết cái mẹ gì cả, ngươi—“

“Ngươi mới là thằng ngu, Arlen Lansdowne. Bộ ngươi không thấy mấy lão này đang cố đề nghị chúng ta chính xác cách để làm điều ngươi nói là không thể sao?” Clifton khịt mũi.

“Đúng vậy, thưa ngài,” lão tu sĩ nói, vẫn giữ nụ cười biết tỏng trên mặt.

“Nếu nó giúp chúng ta tiêu diệt con quỷ đó, thì dù có là mấy tên tu sĩ bản địa này ta cũng tham gia vào,” Clifton nói. Gã nhìn thẳng mặt từng tên truyền giáo còn lại. “Liệu không còn ai khác ở đây làm điều tương tự hay sao?”

Sau một lúc lâu, hai người giơ tay. Cả hai cũng đều chưa chứng kiến sự hủy diệt của bức tượng. Trái lại, ba hiệp sĩ còn lại, bao gồm Arlen, giữ im lặng.

“Ta thấy một làn gió nhát chết thổi qua thứ bậc của chúng ta,” Clifton nói, chừng mắt xuống Arlen và những người khác. “Hãy để nó mang các ngươi cút khỏi đây nhé. Bọn ta sẽ xử con quỷ đó. Ngươi, Arlen Lansdowne, là một thằng hèn không đáng để được gọi là hiệp sĩ. Có lẽ ngươi nên đến chỗ đám mọi rợ và xin làm người hầu của chúng đi.” Không hề có sự ngắt quãng trong lời Clifton, mặc cho cái đoạn rất “mọi rợ” ấy, các tu sĩ, ngồi ngay đối diện gã.

Arlen và hai hiệp sĩ còn lại đứng dậy. “Ngươi sẽ hối hận vì điều này.” Họ hướng ra cửa, quyết định chẳng dính dáng gì tới chuyện này nữa. Điệu cười khoái trí của Clifton theo chân họ ra khỏi phòng.

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.