Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Dẫu rằng hoạn nạn xiết bao, đời nao trời đất tuyệt đường sinh cơ!

Phiên bản Dịch · 6342 chữ

Vân Tiên vừa bước chân ra, Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.

Khai phong mới tỏ sự cơ,(126) Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.

Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa, Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.

Anh em ai nấy đều thương, Trời ơi há nỡ lấp đường công danh.

Những lăm công toại danh thành, Nào hay từ mẫu u minh sớm đời!

Gắng vào trong quán yên nơi, Tớ thầy than thở liệu lời quy lai.(127) Tiểu đồng than vắn than dài: "Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay".

Trực rằng: "Đã đến nỗi này, Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.

Sớm hôm thang thuốc giữ gìn, Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay, Bây giờ kíp rước thợ may, Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.

Dây rơm mũ bạc áo thùng.

Cứ theo trong sách Văn Công mà làm".(128) Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam, Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.

Trong mình không cánh không vi, Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.

Vào trong phút lại gặp tang, Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.

Việc trong trời đất biết chi, Sao dời vật đổi còn gì mà trông.

Hai hàng lụy ngọc ròng ròng, Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.

Cánh buồm bao quản gió xiêu, Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.

Thương thay chín chữ cù lao.(129) Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình".(130) Quán rằng: "Trời đất thình lình, Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương".(131) Ai ai trông thấy cũng thương, Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.

Dẫu cho chước quỷ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai.

Éo le ai khéo đặt bày, Chữ tài liền với chữ tai một vần.

Đường đi hơn tháng chẳng gần, Khi qua khi lại mấy lần xông pha.

Xảy đâu bạn tác vừa ra,(132) Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.

Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền, Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.

Thấy nhau khó nỗi giúp nhau, Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".

Vân Tiên cất gánh lên đường, Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.

Đi vừa một dặm đường xa, Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.

Quán rằng: "Thương đấng anh hùng, Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.

Chẳng may gặp lúc gian truân.

Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".

Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho, Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần".(133) Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng, Thấy vầy nên mới tị trần đến đây.(134) Non xanh nước biếc vui vầy, Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.

Dấn thân vào chốn an nhàn, Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".

Nói rồi quày quả ra đi,(135) Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.

Trông chừng dặm cũ thẳng xông, Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn: "Nên, hư chút phận chi sờn, Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành.(136) Mang câu bất hiếu đã đành, Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.

Trọn đời một tấm lòng son, Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.

Nào hay nước chảy hoa trôi, Nào hay phận bạc như vôi thế này.

Một mình ngơ ngẩn đường mây, Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.

Đến nay lâm việc mới tường, Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".

Tiểu đồng thấy vậy thưa qua: "Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.

Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu, Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.

E khi mang bịnh nửa chừng, Trong non khó liệu giừa rừng khôn toan".

Tiên rằng: "Khô héo lá gan, Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu.

Mịt mù nào thấy chi đâu,(137) Chưa đi đã mỏi mình đau như dần.

Có thân phải khổ vì thân, Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!" Đồng rằng: "Trời đất có hay, Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.

by Y Nhi on Sun 16 Mar 2008, 02:24 Một mình nhắm trước nhắm sau, Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.

Vốn không làng xóm chi đây, Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.

Vừa may gặp khách qua đàng, Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn Dắt nhau khi ấy hỏi phăn,(138) Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.

Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an, Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành.(139) Gặp ta bịnh ấy ắt lành, Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?" Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều, Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.

May mà bịnh ấy đặng an, Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".

Ngang rằng: "Ta ở chốn này, Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.

Sách chi cũng đủ trong nhà, Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.

Trước xem Y học làm đầu, Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y.(140) Gẫm trong Ngân hải tinh vi,(141) Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang.(142) Gẫm trong Tập nghiệm lương phang.(143) Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân.(144) Vị chi sẵn đặt quân thần,(145) Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146) Mạch thời đọc phú Lư san,(147) Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh Lục quân tứ vật thanh danh.(148) Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương.(149) Lại thông Bát trận tân phương.(150) Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài.(151) |Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài, Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.

Ngang rằng: "Lục bộ đều suy,(152) Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng.(153) Cứ trong kinh lạc mà thông,(154) Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu.(155) Tam tiêu tích nhiệt đã lâu, Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm.(156) Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm,(157) Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình.(158) Ngoài thời cho điểm vạn linh,(159) Trong thời cho uống hoàn tình mới xong.(160) Khá trao hai lượng bạc ròng, Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.

Chẳng qua làm phước cho chàng, Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai".(161) Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài, Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.

Mười ngày chẳng bớt chút nào, Thêm đau trong dạ như bào như xoi.

Đồng rằng: "Vào đó thầy coi, Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".

Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm.

Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao.(162) Quỉ thần người ở trên cao, E khi đường sá lẽ nào biết đâu?(163) Tiểu đồng, người khá qua cầu,(164) Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên".

Tiểu đồng nghe nói đi liền, Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.

Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi, Bói hay đã dậy người coi đã đầy.

Ta đây nào phải các thầy, Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.

Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm, Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào.(165) Huỳnh kim Dã hạc sách cao,(166) Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay.(167) Can, chi đều ở trong tay,(168) Đã thông trời đất lại hay việc người.

Đặt tiền quan mốt bốn mươi, Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành".

Thầy bèn gieo đặng quẻ linh, Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi.(169) Ứng vào rùa với cỏ thi, (170) Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".

Đồng rằng: "Người ở đông phương, Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.

Con nhà họ Lục là chàng, Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây".

Bói rằng: "Đinh sửu năm nay, Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.

Mạng kim lại ở cung càn, Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.

Cầu tài quẻ ấy xa vời, Khen người khéo nói những lời trêu ta".

Cầm tiền gieo xuống xem qua, Một giao hai sách lại ba hào trùng.(171) Trang thành là quẻ lục xung,(172) Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.

Hoá ra làm quẻ du hồn, (173) Lại thêm thế động khắc dồn hào quan.(174) Cứ trong quẻ ấy mà bàn;

Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình Xui nên phát bịnh thình lình, Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.

Muốn cho quẻ ấy đặng yên, Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.

Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?" Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra, Phép hay dậy tiếng đồn xa, Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn".

Tiểu đồng mới chạy bôn bôn, Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.

Chợ đông buôn bán lao xao, Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.

Đồng đi một buổi tới nhà, Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.

Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây, Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".

Pháp rằng: "Ân đã cao tay,(175) Lại thêm phù chú xưa nay ai bì.(176) Qua sông cá thấy xếp vi, Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.

Pháp hay hú gió kêu mưa, Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.

Pháp hay miệng niệm một câu, Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh.(177) Pháp hay sái đậu thành binh,(178) Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.

Pháp hay đạo hoả phó thang, (179) Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang.(180) Có ba lượng bạc trao sang, Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".

Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo, Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.

Bấy lâu thầy tớ theo nhau, Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.

Chữa chuyên bịnh ấy đặng an, Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".

Pháp rằng: "Về lấy sang đây, Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".

Đồng rằng: "Tôi đã lo xa, Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.

Xin thầy gắng sức chịu phiền, Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".

Pháp rằng: "Có khó chi sao, Người nằm ta chữa rồi trao phù về".

Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề,(181) Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?" Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền, Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".

Tiểu đồng nghe lọt vào tai, Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.

Pháp bèn cất tiếng hét lên: "Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng.(182) Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên,(183) Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây.(184) Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây,(185) Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi.(186) Thỉnh ông Phật tổ A Di, Thập phương chư Phật phù trì giúp công.

Lại mời công chúa Ngũ Long, (187) Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh.(188) Thỉnh trong thiên tướng thiên binh, Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân.(189) Thỉnh trong khắp hết quỷ thần, Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.

Cho người ba đạo phù trời, Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai".

Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời, Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.

Vào nhà thưa với thầy Ngang: "Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?" Ngang rằng: "Còn bạc trong bao, Thời người khá lấy mà trao cho thầy".

Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây, Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".

Triệu Ngang biết chẳng còn chi, Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng:(190) "ở đây làng xóm khó lòng, E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".

Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.

Những lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don.

Thương thay tiền mất tật còn, Bơ vơ đất khách thon von thế này.(191) Thôi thôi gắng gượng khỏi đây, Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau".(192) Vân Tiên chi xiết nỗi sầu, Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn.(193) Đương khi mưa gió luông tuồng,(194) Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương.

Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao.

Dầu cho tài trí bực nào, Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.

Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn".

Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".

Non tây vừa khuất mặt trời, Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.

Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm: "Anh về nay đã hai rằm,(195) Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?" Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?" Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao, Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.

Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau.

Đương cơn hoạn nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.

Từ đây tới quận Đông Thành, Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong?

Lần hồi đến chốn giang trung, Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".

Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen này".

Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây, Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.

Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kì".

Tiểu đồng vội vã ra đi Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.

Trịnh Hâm trong dạ gươm dao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây: "Trước cho hùm cọp ăn mày, Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".

Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.

Vân Tiên than khóc nằm lăn: "Có đâu địa hãm thiên băng thình lình.(196) Bấy lâu đất khách lưu linh, Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.

Nay đà hai ngả phân nhau, Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình".

Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình, Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi".

Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.

Tiểu đồng bị trói khôn về, Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang: "Phận mình đã mắc tai nàn, Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.

Xiết bao những nỗi dật dờ, Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.

Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm".

Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên.

Sơn quân ghé lại một bên,(197) Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.

Tiểu đồng thức dậy mơ màng, Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay.(198) Nửa mừng nửa lại sợ thay, Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.

Mặt trời vừa khỏi mái hiên, Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.

Hỏi thăm bà quán giữa đàng: "Bữa qua có thấy người tang chăng là?"(199) Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn".

Tiểu đồng nghe nói kinh hồn, Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".

Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.

Tiểu đồng vội vã bước vào, Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?" Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả này là ai?" Người rằng: "Một gã con trai, ở đâu không biết lạc loài tới đây.

Chưn tay mặt mũi tốt thay, Đau chi nên nỗi nước này khá thương".

Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.

Người đều xem thấy thương ôi, Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.

Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.

Một mình ở đất Đại Đề, Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm.(200) Dốc lòng trả nợ áo cơm, Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.

Thứ này đến thứ Vân Tiên, Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.

Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.

Lênh đênh thuyền giữa biển đông, Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ.(201) Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay.(202) Trịnh Hâm khi ấy ra tay, Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời.(203) Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời, Cho người thức dậy lấy lời phôi pha.(204) Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.

Vân Tiên mình lụy giữa dòng, Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.

Vừa may trời đã sáng ngày, Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.

Hối con vầy lửa một giờ,(205) Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.

Vân Tiên vừa ấm chân tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.

Ngỡ thân mình phải nước trôi, Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.

Ngư ông khi ấy hỏi han, Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.

Ngư rằng: "Người ở cùng ta, Hôm mai hẩm hút với già cho vui".(206) Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi, Thân tôi như thể trái mùi trên cây.(207) May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình này trơ trơ".

Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?

Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.

Rày doi mai vịnh vui vầy,(208) Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.

Một mình thong thả làm ăn, Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm.

Nghêu ngao nay chích mai đầm,(209) Một bầu trời đất vui thầm ai hay.

Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời.

Thuyền nan một chiếc ở đời.

Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang".

Tiên rằng: "Vậy cũng một làng, Võ Công người ở gần đàng đây chăng?" Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần, Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi".

Tiên rằng: "Xưa đã gá lời, Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.

Vợ chồng là đạo tào khương, Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.

Trăm năm muốn trọn ân tình, Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.

Chút nhờ cứu tử ơn sâu,(210) Xin đem tới đó trước sau cho tròn".

Ngư rằng: "Làm đạo rể con, Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim Sợ bay mà mỏi sức chim, Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.

E khi chậm bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.

Mấy ai ở đặng hảo tâm, Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi?

Mấy ai hay nghĩ việc đời, Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu?

Đã ba thứ tóc trên đầu, Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".

by Y Nhi on Sun 16 Mar 2008, 02:24 Vân Tiên thưa đã hết lời, Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang.(211) Dắt Tiên vào chốn hậu đàng, Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi.

Chẳng qua sợ thế gian cười, Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa, Ngư ông đã có công đưa, Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".

Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn, Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.

Nhớ xưa trong núi Lư San, Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên.(212) Tới sau đình trưởng đỗ thuyền, Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang.(213) Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".

Một lời gắng giúp keo sơn, Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.

Võ Công không ngớt lòng phiền, Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay.

Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây, Cho ta trở lại sau này liệu toan".

Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?

Mặc con toan liệu làm sao, Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".

Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn.

Ai cho sen muống một bồn, Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê?(214) Thà không chót chịu một bề, Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu!

Dốc lòng chờ đợi danh nhu, Rể đâu có rể đui mù thế ni?

Đã nghe người nói hội này, Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.

Ta dầu muốn kết sui gia, Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh".

Công rằng muốn trọn việc mình, Phải toan một chước dứt tình mới xong.

Nghe rằng trong núi Thương Tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.

Đông Thành ngàn dặm còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".

Phút vừa trăng đã đứng đầu, Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than.(215) Võ Công ra trước dỗ chàng, Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành.

Ra đi đương lúc tam canh, Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.

Bỏ rồi rón rén bước liền, Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa.(216) Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.

Ghi lòng dốc trọn thảo ngay, Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".

Lắng nghe vẳng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.

Vân Tiên khi ấy hãi hùng, Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình.

Nực cười con tạo trớ trinh,(217) Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.

Ngẫm mình tai nạn biết bao, Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.

Dây sầu ai khéo vương mang, Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo.(218) Trong hang sau trước quạnh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.

Oan gia nợ đã khéo gây, Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.

Đã đành xa cõi nhân gian, Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.

Đêm khuya ngọn gió thổi lò, Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng.(219) Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai.

Du thần xem thấy ai hoài,(220) Xét trong mình gã có bài phù tiên.

Mới hay là Lục Vân Tiên.

Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra.

Khỏi hang một dặm vừa xa, Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.

Du thần trở lại sơn trung, Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.

Lão tiều cơm gói sẵn sàng, Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.

Tới nơi đại lộ là chừng, Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.

Hay là yêu quái tà gian, Rung cây nhát lão làm đàng hại nhân.

Lão tiều liền bước tới gần, Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.

Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?" Vân Tiên nghe tiếng mừng thay, Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.

Lão tiều nghe nói giờ lâu, Gẫm trong thế sự gật đầu thở than: "ít người trong tuyết đưa than,(221) Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương".

Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay: "Ngửa trông lượng cả cao dầy, Cứu trong một buổi ơn tày tái sinh.

Mai sau về tới Đông Thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".

Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lại trông người sao hay.

Già hay thương kẻ thảo ngay, Này thôi để lão dắt ngay về nhà".

Tiên rằng: "Trong dạ xót xa, Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi.(222) Lại thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".

Lão tiều vội ngửa áo tơi, Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên: "Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".

Khỏi rừng ra tới ngã ba, May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.

Lão tiều lật đật bôn trình,(223) Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.

Vân Tiên nghe tiếng cố tri, Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.

Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh,(224) Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?" Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi, Thân này nào có khác gì cây trôi.

Linh đinh gió dập sóng dồi, Rày đây mai đó khôn rồi gian nan." Minh rằng: "Đây khó hỏi han, Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau." Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên." Hớn Minh quỳ gối lạy liền: "Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành, Này hai lượng bạc trong mình, Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".

Tiều rằng: "Vốn lão tình không.

Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.

Tấm lòng chẳng muốn của ai, Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.

Kìa non nọ nước thong dong, Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.

Công hầu phú quí mặc ai, Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".

Vân Tiên nghe biết người ngay, Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.

Lão tiều trở lại lâm sơn, Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây.(225) Tiên rằng: "Đã gặp khoa này, Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?" Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi, Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.

Anh thời về trước tỉnh thân.(226) Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.

Đi vừa tới huyện Loan Minh, Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.

Giàu sang ỷ thế nghinh ngang, Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì.(227) Tôi bèn nổi giận một khi, Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.

Mình làm nỡ để ai lo, Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.

Án đày ra quận Sóc Phang, Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.

Vừa may mà gặp chùa này, Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".

Vân Tiên nghe nói thảm thương, Lại bày một khúc tai ương phận mình.

Minh nghe Tiên nói động tình, Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.

Tiên rằng: "Thượng cội xuân huyên,(228) Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.

Trông con như hạn trông dào, Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.

Vừng mây giăng bạc trên đầu, Ba năm chưa trọn một câu sanh thành.(229) Hữu tam bất hiếu đã đành.(230) Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.

Tưởng thôi như cắt ruột gan, Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".

Minh rằng: "Người ở trong trần, Có khi phú quí có lần gian nan.

Thấp cao vàng biết tuổi vàng, Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.

Thôi thôi anh chớ vội về, Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.

Bao giờ hết lúc tai nàn, Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.

Cam La sớm gặp cũng xinh,(231) Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời.(232) Nên, hư có số ở trời, Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong".(233) Vân Tiên khi ấy yên lòng, Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.

Võ công làm việc trớ trinh,(234) Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.

Kể từ định chước hại chàng, Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.

Ngày ngày trang điểm phấn dồi, Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.

Xảy đâu Tử Trực vừa về, Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.

Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền, Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi.(235) Thương chàng phận bạc trong đời, Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".

Nghe qua Tử Trực chạnh lòng, Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.

Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa, Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.

Trời sao nỡ phụ tài lành, Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.

Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.

Người đà sớm thác ta còn làm chi?

Trong đời mấy bực cố tri, Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm".

Công rằng: "Ta cũng thương thầm, Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang.(236) Thôi thôi khuyên chớ thở than, Đây đà tính đặng một đàng rất hay.

Tới đây thời ở lại đây, Cùng con gái lão sum vầy thất gia.(237) Phòng khi hôm sớm vào ra, Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên.

Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên,(238) Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.

Vợ Tiên là Trực chị dâu, Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì!

Chẳng hay người học sách chi, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?

Hay là học thói nước Tề, Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công?(239) Hay là học thói Đường cung,(240) Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?

Người nay nào phải nhà Tần, Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm?(241) Nói sao chẳng biết hổ thầm, Người ta há phải là cầm thú sao?

Võ Công hổ thẹn xiết bao, Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.

Thể Loan trong cửa bước ra.

Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.

Thiếp đà chẳng trọn lời thề, Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.

Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng,(242) Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.

Chẳng ưng thời cũng làm khuây, Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng".

Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên, Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi.(243) Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi, Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa.

Hổ hang vậy cũng người ta, So loài cầm thú vậy mà khác chi?

Vân Tiên anh hỡi cố tri, Suối vàng có biết sự ni chăng là?" Tay lau nước mắt trở ra, Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành.

Võ Công hổ thẹn trong mình, Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan(244) Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang, Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.

Chú thích

126 Khai phong: mở phong thư.

Sự cơ: sự tình, nông nỗi.

127 Qui lai: trở về, quay về (vì mẹ chết)

128 Sách Văn Công: Sách qui định nghi lễ về tang ma cưới xin.

129 Chín chữ cù lao: công lao khó nhọc của cha mẹ nuôi dạy con.

130 Nhũ bộ: bú sữa, mớm cơm.

131 Thiên hương: hương trời, đây dùng chỉ tài năng lỗi lạc của Vân Tiên.

132 Bạn tác: bạn cùng tuổi, cùng lứa.

133 Lòng còn lo ngại về đường xa nỗi gần chưa biết rồi sẽ ra sao.

134 Tị trần: tránh bụi, xa lánh cuộc đời loạn lạc mà đi ở ẩn.

135 Quày quã: vội quay phắt ngay đi.

136 Dưỡng dục: nuôi nấng, dạy dỗ. Sinh thành: sinh ra và gây dựng nên người.

137 Vân Tiên thấy mắt bỗng tối mù.

138 Hỏi phăn: hỏi lần cho ra manh mối.

139 Đầu thang: bốc thuốc.

140 Y học, Thọ thế, Đông y các bộ sách y học cổ truyền.

141 Ngân hải tinh vi: sách thuốc về cách chữa mắt.

142 Cang mục: sách nói về tính chất các vị thuốc. Thanh nang: chỉ sách chép các phương thuốc chưa hề truyền cho ai.

143 Sách tập hợp các phương thuốc hay đã được dùng.

144 Ngự Toản; Hồi xuân: các sách thuốc cổ.

145 Xuân thần: Vị chính vị phụ trong một thang thuốc đông y.

146 Nỏ nan: nói thuốc sao khô cẩn thận.

147 Lư san: bài phú dạy phép xem mạch.

148 Lục quân, Tứ vật: tên hai thang thuốc căn bản chữa khí, huyết.

149 Thập toàn, Bát vị: hai bài thuốc bổ chữa bệnh tạng phủ suy.

by Y Nhi on Sun 16 Mar 2008, 02:26 150 Bát trận tân phương: sách thuốc do danh y Trương Giới Tân đời Minh soạn.

151 Khi bị cảm thường uống thang Ngũ sài.

152 Lục bộ: sáu bộ mạch.

153 Phù hồng: mạch nổi.

154 Kinh lạc: các đường truyền dẫn khí huyết trong thân người.

155 Mạng môn: huyệt ở giữa hai quả thận. Tướng hoả: dương khí (thận hoả).

156 Cơ thể tích nhiệt đã lâu, cần hạ nhiệt (giáng hoả). Tư âm: làm vượng âm lên.

157 Huỳnh liên, huỳnh bá, huỳnh cầm: ba vị thuốc chữa nóng.

158 Phải thêm gấp bội ba vị này vào, thì nóng ở tim mới bình thường trở lại.

159 Vạn linh: thuốc chữa mắt đau.

160 Hoàn tình: thuốc uống cho mắt thêm sáng ra.

161 Đòi cuộc đòi đàn: Đòi người bệnh phải đặt tiền cược trước.

162 Tiên sư: đây nói tiên sư nghề làm thuốc.

163 E khi đi đường, Vân Tiên có làm điều gì phạm đến quỉ thần nên bị quỉ thần phạt.

164 Cẫu: cầu xin giúp.

165 Châu Diệc; kinh dịch đời Chu. Sách có 64 quẻ, 384 hào. Thời xưa sách dùng vào việc bói toán.

166 Huỳnh kim, Dã hạc: hai sách nói về thuật bói toán.

167 Lục nhâm, Lục giáp: hai môn thuật số bói toán.

168 Can, chi: (trong khoa lí số).

169 Chiêm: bói. Lộ trình: nói việc đi đường.

170 Rùa thi: mai rùa, cỏ thi là hai thứ dùng để bói.

171 Giao, sách, trùng: cách bói dùng ba đồng tiền gieo sáu lần xuống đĩa.

172 Trang: trang quẻ. Lục xung: sáu hào trong quẻ xung khắc nhau.

173 Quẻ du hồn: quỉ nói việc hồn đi chơi vơ vẩn, ứng vào việc Vân Tiên bị long đong nơi đường xa đất khách.

174 Đời Vân Tiên bị xáo động, công danh trắc trở.

175 Ấn: phù phép trừ tà của thầy pháp.

176 Phù chú: lá bùa và câu thần chú.

177 Hồ linh: bầu thiêng, có thể thu chứa cả trời đất.

178 Sái đậu thành binh: rảy hạt đậu mà hoá thành binh lính.

179 Đạo hoả: giẫm lên lửa. Phó thang: dấn mình vào nước sôi.

180 Mở đàng thiên hoang: mở đường trời đất.

181 Hề: hề đồng

182 Bàn Cổ: ông tổ của trời đất, vạn vật. Toạ tiền chứng miêng: trước bàn thờ chứng minh cho.

183 Tôn Ngộ Không.

184 Võ hậu: tên một vị thần thường đi lại trên đại dương.

185 Vị tướng đời Đường.

186 Bà tiên cai quản tiên nữ.

187 Công chúa Ngũ Long: năm công chúa của Long vương.

188 Bình nam ngũ hổ: năm tướng dũng mãnh đánh chiếm phương Nam. An dinh: đóng yên doanh trại.

189 Chỉ chung các vị thần ở trên trời, dưới âm phủ, và trong lòng sông ở Động Đình và Xích Lân.

190 Tráo chác: lừa dối, trở mặt.

191 Thon von: cô đơn sa sút gian nguy.

192 Khuyên giáo: đi xin của bố thí.

193 Cầu bắc qua rạch Lá Buôn (Biên Hoà).

194 Luông tuồng: tơi bời.

195 Hai rằm: hai ngày rằm, tức hai tháng.

196 Đất sụt trời sập, chỉ tai biến lớn.

197 Sơn quân: vua núi, chỉ con hổ.

198 Ràng ràng: rành rành.

199 Người tang: người bận áo tang.

200 Quảy đơm: cúng lễ.

201 Cô Bồng: con thuyền lẻ loi.

202 Sao mọc nhiều không theo hàng lối nào.

203 Vời: khoảng nước rộng, lòng sông.

204 Phôi pha: qua quýt cho xong chuyện.

205 Hối: giục. Vầy lửa: nhóm lửa.

206 Hẩm hút chỉ thứ gạo xấu, thức ăn người nghèo.

207 Trái mùi: trái chín nục.

208 Doi: dải đất ở cửa sông hay dọc sông.

209 Chích, đầm: ao hồ.

210 Cứu tử: cứu cho khỏi chết.

211 Chẳng đã: cực chẳng đã.

212 Ngũ Viên (Ngũ Tử Tư) một lần bị đuổi rất nguy, may được ông chài đưa thoát qua sông.

213 Hạng Võ lúc bị mấy ngàn kị binh Hán đuổi gấp tới sông Ô giang có ông đình trưởng mời qua sông (nhưng Hạng Võ từ chối, ở lại quyết chiến và tự sát).

214 Phồn: giống, thứ hạng.

215 Nhà cầu: nhà phụ làm lối đi thông nối hai nhà chính.

216 Gay: vặn quai chèo chặt vào cọc chèo.

217 Trớ trinh: trớ trêu.

218 Cheo: loài nai xạ hương.

219 Thổi lò: thổi lùa mạnh vào một nơi.

Mưa tro: mưa bụi, mưa phùn

220 Du thần: thần đi xem xét chốn dân gian.

221 Trong tuyết đưa than: gặp trời giá tuyết đưa giúp người than sưởi.

222 Không hoà mùi chi: không ăn uống gì.

223 Bôn trình: lên đường.

224 Nhơn huynh: người anh tốt.

225 Hoàn: trở về. Am mây: chùa nhỏ hẻo lánh.

226 Tỉnh thân: thăm nom cha mẹ.

227 Cưỡng bức phụ nữ, bất chấp đạo nghĩa.

228 Xuân huyên: cha mẹ.

229 Để tang ba năm cũng chưa đủ báo đáp công sinh thành của cha mạ.

230 Hữu tam bất hiếu: ba điều bất hiếu.

231 Cam La: mưu sĩ thời Chiến quốc.

232 Khương Tử Nha (xem CT 119).

233 Bôn chôn: nôn vội.

234 Lừa dối.

235 Huỳnh tuyền: suối vàng.

236 Sắt cầm: tình duyên.

237 Thất gia: chỉ vợ chồng.

238 Nhắc lại chuyện làm thơ tỏ tình gắn bó.

239 Hoàn Công sai người nói với vua Lỗ giết Tử Củ, chiếm vợ của em.

240 Đường cung: cung vua Đường.

241 Bất Vi kén trong số vợ mình, một người tuyệt đẹp đã có mang, dâng cho Tử Sở làm vợ. Thái tử Sở lên làm vua, tức Trang Tương vương. Ba năm sau chết, con Sở (thực chất là con Bất Vi) lên ngôi Tần Vương (Tần Thủy Hoàng).

242 Tục truyền thơ trông bóng trăng mà chửa.

Nằng nằng: quyết một bề không đổi.

243 Điêu Thuyền dùng kế mĩ nhân quyến rũ Lã Bố và Đổng Trác, khiến Bố giết Trác.

244 Có điều trái với ý mình mà đâm ra uất ức phiền muộn

Bạn đang đọc Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi PhươngHạoNhiên
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 27

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.