Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

LỮ KHÁCH BỊ THƯƠNG

Phiên bản Dịch · 24906 chữ

Nhóm dịch : Valvrareteam

Chương Một: Lữ Khách Bị Thương

Yukinair cảm thấy ánh sáng mặt trời rọi qua mí mắt. Cậu ghi nhận sự có mặt của buổi sáng đồng thời thức dậy từ giấc ngủ vô thức.

Cậu không nói, mà chỉ chớp mắt hai lần.

Ánh mặt trời có vẻ khang khác, theo một cách nào đó, so với mọi khi. Có lẽ cậu đang tưởng tượng chăng? Cậu chưa bao giờ được đánh thức bởi ánh nắng buổi sớm như vậy. Cậu sống ở cái “thánh địa” này cũng được hàng tháng rồi—có lẽ sự giao mùa đã mang lại cho ánh sáng một sắc thái mới.

“Hửm…?” Yukinari ngồi dậy và gãi đầu.

Cậu hít một hơi thật sâu. Không khí lạnh và ẩm ướt; hẳn là sáng vẫn còn sớm. Bên ngoài đã hửng nắng, nhưng cậu có cảm tưởng rằng mình dậy hơi sớm hơn so với bình thường. Cậu nén cơn ngáp xuống cổ họng và ra khỏi giường. Cậu nhìn lại về phía cửa sổ nơi ánh sáng đang rót xuống—và đứng hình.

Một cô nhóc đang đứng đó. Mười tuổi, hoặc có lẽ nhỉnh hơn chút—mà nói chung là, trông nó vậy. Nhỏ đang quay chỗ khác, nên cậu không thấy rõ mặt, nhưng cơ thể thì nói lên rằng nhỏ vẫn đang ở tuổi ăn tuổi lớn; ở nhỏ toát ra ấn tượng rõ rệt của một đứa trẻ. Thậm chí có vẻ nhỏ còn chưa có những đặc điểm giới tính thứ cấp.

“Ulrike?” Yukinari lẩm bẩm, nhíu mày.

Thậm chí từ phía sau thì vẫn không thể nhầm lẫn nhỏ với ai khác. Nhỏ là người duy nhất trong thánh địa trông trẻ tuổi đến vậy. Chưa kể, chẳng ai khác ở đây sở hữu những chiếc “sừng” —giống sừng nai, hoặc có lẽ là cành cây—hình dạng kì lạ như nhỏ.

Những chiếc sừng dáng hình cổ quái, nhưng có một sự đối xứng nhất định; một khi đã quen rồi thì trông chúng cũng chẳng tệ lắm.

Mấy cái đó thì chẳng vấn đề gì, cơ mà…

“Nhóc đang làm gì vậy?”

“Mm? Yukinari, dậy rồi à?”

Cô nhóc Ulrike quay đầu lại, rủ theo mái tóc dài bồng bềnh như suối. Màu xanh lá cây đậm như chiếc lá vừa chớm nở. Mái tóc và cặp sừng của nhỏ cho thấy rõ ràng nhỏ không hoàn toàn là con người, nhưng ngay cả vậy, đây là những đặc điểm khác thường duy nhất; từ cổ trở xuống, trông nhỏ hoàn toàn như một người bình thường.

Điều đó chỉ càng khiến cho tình hình tệ hơn.

“Tôi đang hấp thụ năng lượng từ ánh sáng mặt trời,” nhỏ nói, gương mặt thiên thần hơi nghiêng vẻ khó hiểu.

“Hấp thụ năng lượng? Sao cơ, ý nhóc là như một cái cây à?” “Tôi là một cái cây mà.”

“…Ừ nhỉ.” Yukinari khẽ thở dài.

Ulrike không phải con người, như vẻ bề ngoài. Hoặc chính xác hơn, nhỏ không còn là con người nữa. Nhỏ đã từng là một cô bé thôn quê điển hình, nhưng con người Ulrike thì đã chết từ lâu.

Khi nhỏ nói chuyện với Yukinari, lời lẽ và hành động của Ulrike “chính gốc” được đặt ở chính diện, nhưng những suy nghĩ đằng sau chúng lại thuộc về Yggdra. Người dẫn dắt và người nghe theo không phải lúc nào cũng rõ ràng ngay, và đôi lúc Yukinari không chắc mình cảm thấy thế nào về việc đó. Mà, hiển nhiên là nhỏ này không luôn nghĩ về mọi điều theo cách mà một người bình thường có thể mong đợi.

Một phần của vấn đề đó là thổ thần Yggdra đã phát triển từ một cái cây, một sinh vật sở hữu cách sống khác so với con người đến nỗi vị thần phải dùng các thân cận của mình làm trung gian nhằm cố gắng giao tiếp với nhân loại. Nhưng bất kể biểu hiện bên ngoài thế nào, suy nghĩ đằng sau lời lẽ và hành động của các thân cận sau cùng vẫn bị ảnh hưởng bởi Yggdra, tức là đôi lúc Yukinari thấy rằng nhỏ chỉ tiếp xúc với những gì cậu cho là sự tỉnh táo.

Những lúc như là, chẳng hạn, tắm nắng, khỏa thân như một con chim giẻ cùi, ngay trước cửa sổ. “Cây cối có được năng lượng từ ánh sáng và nước. Bản thân tôi là một phần của Yggdra, anh hẳn còn nhớ. Vậy nên tôi ở đây để hấp thụ ánh sáng.”

Ulrike giải thích tất cả những điều này, không hề mảy may tỏ ra chút xấu hổ nào mặc dù cơ thể vẫn còn đang phát triển, hoàn toàn lõa lồ của mình đang nằm trọn trong tầm mắt của Yukinari. Dọc theo làn da nhợt nhạt của nhỏ chạy một mạng lưới các đường màu xanh lá cây, như những đường gân trên chiếc lá. Chắc hẳn cơ thể nhỏ hoạt động không phải nhờ máu, mà nhờ nhựa diệp lục.

Bất luận thế nào, rõ ràng là các tế bào thực vật trong cơ thể Ulrike được cung cấp năng lượng nhờ hoạt động quang hợp này, nhờ việc phơi những mạch máu màu xanh lá trước ánh nắng.

“Logic thì hiểu rồi, cơ mà mặc chút quần áo vào đi chứ,” Yukinari nói.

“Hửm? Tại sao?” Nhỏ lại nghiêng cằm thắc mắc như một chú chim non, hệt như hình ảnh minh họa cho sự ngây thơ trong sáng. Trông nhỏ không hề có chút gì gọi là do dự hay ngại ngùng về việc khỏa thân trước mặt Yukinari.

Chắc là, cây cối nó vậy đấy…

Thực vật không hề cảm thấy xấu hổ về việc không mặc quần áo, nên Ulrike cũng vậy là điều hiển nhiên thôi. Nhưng như đã nói, từ cổ trở xuống—ngoại trừ những đường gân xanh—cơ thể nhỏ hệt như một người con gái chưa trưởng thành. Cũng dễ hiểu thôi nếu mà Yukinari có chút nghi ngờ về việc tiếp xúc với điều này.

“Điều này đơn giản là… không hay. Theo rất nhiều cách.” “Không hay? Cái gì không hay?”

“Thì, ý tôi là—”

Cậu đang cố để tìm ra cách giải thích thì… “Chúa Tể Yukinari, chào buổi—”

Một cô gái khác xuất hiện ở cánh cửa vẫn để mở vào phòng cậu.

Trông cô như đang ở tuổi thiếu niên. Cô không cao lớn; điểm này thì giống Ulrike, nhưng đã có cho mình sự đầy đặn của một người phụ nữ. Điều này đặc biệt rõ ràng ở phần ngực, nơi mà sự màu mỡ căng tràn mặc cho lớp quần áo.

Mái tóc lanh của cô được buộc thành bím. Trông cô dịu dàng và ngọt ngào—nét ngài không thô cứng, và về tổng thể cô mang lại ấn tượng của sự đơn giản, nhưng rõ ràng là vẫn xinh đẹp.

Berta Wohmann.

Cô là một vu nữ được hiến dâng cho chủ nhân của thánh địa này—đó là, “thần” Yukinari. Bản thân Yukinari thấy điều này có hơi kì quặc, nhưng chẳng có ai xung quanh cậu, bao gồm cả Berta, phản đối gì cả, vậy nên cô phò tá cậu mà không hề hoài nghi hay thắc mắc.

“Chúa Tể Yukinari…” Cô đang đứng như trời chồng với hay tay che miệng, như thể nén tiếng kinh ngạc. Mà, cô định đến để nói chào buổi sáng, và thấy phòng của chủ nhân mình bị chiếm đóng bởi một cô bé trần truồng. Sốc một chút thì cũng dễ hiểu thôi.

“Đúng rồi…” Yukinari nén tiếng thở dài nói. “Berta, cái này là… là, ừm, thói quen buổi sáng của Ulrike.”

“Chúa Tể Yukinari,” Berta nói, đôi mắt to chớp chớp. “Nếu ngài cho gọi, thì bất kể ngày đêm em cũng sẽ tới để—”

“Thôi, đủ rồi. Em chỉ đang làm mọi chuyện tệ đi thôi.” Cậu nhíu mày.

Berta rõ ràng là đã hiểu sai sự tình.

Đúng ra thì ban đầu Berta được dâng cho một thổ thần ăn thịt người, và Yukinari đã cứu cô. Nhưng gần như từ lúc sinh ra cô đã được nuôi nấng để trở thành vu nữ, vậy nên một phần cô cho rằng “dâng hiến chính mình” chính là lẽ sống của bản thân.

Bằng việc đánh bại thổ thần tiền nhiệm, Yukinari đã trở thành vị thần mới, và có lẽ tinh thần Berta đã thoải mái hơn nếu cô được phép dâng mình cho cậu. Nhưng Yukinari, dĩ nhiên, không ăn thịt người, và thế là Berta chỉ còn duy nhất một cách khác để dâng cơ thể mình cho cậu. Đây không phải do bất cứ dục vọng thuần túy nào mà là vì nghĩa vụ cô cảm thấy mình có với cậu, và điều đó có thể khiến việc xử lí cô trở nên rất khó khăn.

Thế rồi… “………Yuki.”

Ai đó nữa xuất hiện ở cửa sau lưng Berta. Một thiếu nữ khác. Cậu chẳng biết cô nàng đã ở đó tự bao giờ. Về ngoại hình thì cô nhỏ hơn Berta, với thân hình mảnh dẻ, nên có lẽ đơn giản là cậu đã không trông thấy.

Cô có mái tóc bạc cắt ôm sát, mắt xanh, và làn da trắng mịn như sứ. Mỗi đặc điểm này đều khác thường và làm nên vẻ đẹp gần như siêu nhiên của cô nàng. Nếu đứng im bất động, có khả năng gần như cô sẽ bị nhầm thành một con búp bê có cấu tạo phức tạp.

Tên cô là Dasa Urban. Cô là bạn đồng hành của Yukinari, em gái của người mà cậu mắc nợ cả tính mạng, và là một bậc thầy nghiên cứu thế giới này. “Phức tạp” còn là một từ quá thoáng cho mối quan hệ của họ.

“Anh đang… làm gì vậy?”

“Anh có làm gì đâu,” Yukinari nhấn mạnh, nhưng trông Dasa nghi ngại sâu sắc. “Anh đi ngủ, rồi anh thức dậy thôi!”

“Với Ulrike ư?”

“Một mình!” Yukinari hét.

Nhưng trông Dasa chỉ càng thêm ngờ vực; cô nàng đã lôi ra khẩu “Ớt Đỏ” yêu dấu từ chỗ nào đó và vừa mở cổng nạp đạn, kiểm tra xem bên trong có đạn chưa. Dasa sẽ chẳng bao giờ thực sự bắn Yukinari, cơ mà—nói sao nhỉ? — Sự ẩn ý là đủ để đáng lo ngại rồi.

“Yuki… Đồ hám gái.”

“Anh đã cố nói cho em rồi, anh không phải—à, mà thôi. Anh không cãi đâu. Em cất súng đi là được rồi.”

“Tôi nghe nói ánh nắng mặt trời cũng khá tốt cho động vật đấy. Muốn tham gia với tôi không, Yukinari?”

Yukinair hét thẳng vào mặt cô bé vẫn còn đang trần truồng. “Thế là đủ rồi đấy—và mặc quần áo vào đi!”

Friedland là một thị trấn nhỏ nép mình giữa những ngọn núi. Do khoảng cách của nó với thủ đô, chính quyền trung ương có tương đối ít ảnh hưởng, và chính quyền hầu hết được giao lại cho người bản địa.

Dọc theo biên giới, thị trấn và làng mạc thế này không phổ biến. Phần nhiều có cấu trúc hành chính độc lập—phong tục và văn hóa của họ rất phong phú, nhưng không phải vì thực dân được phái đi để chiếm các khu vực mới làm thuộc địa. Mà đúng hơn, các quốc gia nhỏ phát sinh tự nhiên ở biên giới đã được thu nạp số lượng lớn vào lãnh thổ của thủ đô. Đường xá tương đối dễ đi, nhưng chúng chủ yếu để kết nối thủ đô với các thành phố nội địa; các khu định cư nhỏ ở biên giới hiếm khi tận dụng chúng.

Một lí do cho điều này đó là các giáo phái thổ thần có thể được thấy phần nhiều trong các khu vực hẻo lánh.

Thổ thần: các sinh vật sống đã thu được một lượng lớn sức mạnh tâm linh. Nói chính xác hơn, á thần và ngoại thú đã thiết lập liên kết tâm linh với vùng đất và có khả năng gây ảnh hưởng tới môi trường trong một khu vực nhất định. Một khi tới được đó, nó được gọi là thổ thần. Trong nhiều trường hợp, những người sống ở những khu vực đặc biệt khó sống này thiết lập một giao kèo với thổ thần nhằm đảm bảo sự dồi dào. Điều đó cho họ một chút ổn định để xây dựng cuộc sống.

Ấy là giáo phái thổ thần.

Nhưng mọi thứ đều có cái giá của nó. Không thổ thần nào ngu ngốc đến mức cung cấp sự dồi dào và bảo vệ một thị trấn khỏi thảm họa tự nhiên mà không đòi nhận lại bất cứ điều gì.

Thường thì, thứ vị thần yêu cầu là các vật tế sống.

Thổ thần nảy sinh bằng cách thiết lập mối ràng buộc tâm linh với vùng đất, nhưng dần dần trí tuệ và cảm thức của nó tan biến cho đến khi nó hòa làm một với mảnh đất nó cai trị. Nhằm ngăn chặn điều này, nó cần phải khơi dậy trí tuệ và sự tự thức của mình bằng cách nuốt chửng những sinh vật có sức mạnh tâm linh lớn—tức là những vị thần khác, hoặc ít ra là con người.

Hàng trăm hàng ngàn người có lẽ đã chết vì thiên tai hoặc nạn đói. Từ bỏ một người mỗi vài năm để tránh khỏi những thảm họa như vậy có vẻ là một cái giá không đắt—ít ra là với hầu hết mọi người.

Ở Friedland cũng tương tự. Ngoại từ một điều.

Ngay khi thổ thần định ăn thịt “vu nữ” được dâng cho nó, một lữ khách trẻ tuổi đã tình cờ chứng kiến nghi lễ—một chàng trai tên Yukinari Amano. Và cậu đã giết thổ thần.

Theo cái tên “thần” ngụ ý, giết một sinh vật như vậy không phải điều mà một người bình thườn có thể làm. Đến cả thần thoại và truyền thuyết cũng chẳng có câu chuyện nào về một người tự mình hạ gục một thổ thần. Thần chính xác là thần bởi vì họ đã vượt qua và thống trị ngay cả loài người, những sinh vật tâm linh mạnh nhất trong muôn loài.

Kết quả là, Yukinair được tôn làm thổ thần mới của Friedland.

Nói chúng, khi một thị trấn không có thổ thần, một á thần sẽ đến và cố lấp vào chỗ trống. Trở thành thổ thần có nghĩa là thống trị loài người như một vị chủ nhân bất tử, và với á thần—đó là, những con thú chưa hoàn toàn trở thành thần—ấy là một lời mời gọi rất có sức hút.

Tuy nhiên, sẽ thật tệ cho Friedland nếu mà vị trấn mới độc ác hơn vị thần cũ. Có thể nó sẽ đòi hỏi nhiều vật tế hơn hoặc giết và ăn thịt người bừa bãi—nói cách khác, có thể nhiều người hơn sẽ phải chết.

Hơn nữa, nếu một vài á thần tranh nhau quyền cai trị còn trống, cuộc chiến của chúng có thể gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho thị trấn. Chưa kể bởi lẽ cách nhanh nhất để á thần trở nên mạnh hơn là ăn thịt thật nhiều người.

Người Frieldand giao cho Yukinari tránh nhiệm ngăn chặn tất cả những điều này. Bằng cách tôn vinh cậu làm vị thần mới và tuyên bố rằng vùng đất của họ là lãnh thổ của cậu, họ hy vọng rằng sẽ làm chùn bước những á thần khỏi việc tấn công và đánh nhau trong khu vực.

Hiện, Yukinair đang đi về dọc theo con đường nối Friedland với “thánh địa” của mình. Cậu liếc nhìn con suối nhỏ chảy bên cạnh.

Một con suối mới. Sự thật rằng khu vực này vẫn còn thiếu cây cối và trong suối không có cá dù nước rất trong được chứng thực bởi nguồn gốc nhân tạo của nó—cũng như cách mà nó chảy theo một đường thẳng tắp.

Khi đến gần thị trấn, con sống rẽ thành các nhánh nhỏ, mang nước tới các cánh đồng lân cận. Các đường vân trên những cánh đồng cho thấy chúng cũng chỉ mới được làm. Đất hoàn toàn mới. Những chồi nhỏ, còn chưa mọc, thấm trong vạt nắng.

“Mọi thứ đang tiến triển tốt đấy… chắc vậy,” Yukinari lẩm bẩm.

Cậu đã trở thành thổ thần của Friedland trước sự nài nỉ của mọi người, nhưng tất cả những thay đổi này chỉ là vẻ bề ngoài; cậu không có sự kết nối với đất, khả năng điều khiển môi trường, mà một thổ thần thực thụ có. Có lẽ cậu đã có thể đạt được chúng nếu biết cách, nhưng một cuộc sống vĩnh hằng mà sau cùng sẽ đánh mất chính bản thân khi hòa làm một với đất hoàn toàn không hấp dẫn cậu.

Tuy nhiên, Friedland cũng không thể hy vọng mùa vụ giữ ổn định nếu không làm gì cả. Trong trường hợp tệ nhất, nạn đói hàng loạt là một khả năng rõ rệt. Nhưng cho dù không đến mức đấy, không có thổ thần, đất đai sẽ kém màu mờ đi. Nhằm đẩy lùi vấn đề này, Yukinari đã rút ra kiến thức của mình để tạo một hệ thống nông nghiệp hiệu quả.

Sự thật là, Yukinari không thuộc về thế giới này. Một linh hồn gửi tới từ thế giới khác đã được trao cho một humunculus mang tên “thiên thần.” Yukinari là vậy. Thế giới cậu ở trước đó tiến bộ về mặt khoa học và có trình độ học vấn cao, nên mặc dù không phải là một phải là một chuyên gia nông nghiệp, cậu vẫn có một số ý tưởng để cải thiện hệ thống địa phương.

Đầu tiên là sử dụng hồ nước lân cận làm nguồn cho các con mương thủy lợi nhằm giúp đảm bảo tài nguyên thiên nhiên thất thường nhất: nước. Còn có khả năng cải thiện đất đai và phân bón.

Dĩ nhiên, không có gì đảm bảo rằng nông nghiệp ở thế giới này hoạt động y như thế giới trước của cậu, một lượng thử và sai là không thể tránh khỏi, nhưng những con người này đã luôn phụ thuộc vào thổ thần để giúp họ canh tác. Đơn giản là họ chưa bao giờ có ý ddunhj thay đổi môi trường bằng chính đôi tay của mình.

Thực tế là vậy… “Thổ thần kìa!” “Chào buổi sáng!”

Khi thấy Yukinari bước dọc theo con đường, cư dân Friedland dừng tay để chào cậu. Tất cả họ đều mỉm cười, và đó là bằng chứng rõ ràng cho thấy các phương pháp canh tác cải tiến của cậu đang có ích.

“Và ngài ấy đi cùng Phu Nhân Ulrike.” Họ gửi lời chào tới Ulrike, đang bước đi cùng cậu. Nhỏ đã tới cùng đất này với tư cách đại diện của Yggdra, thổ thần của thị trấn Rostruch, và thế là nhỏ cũng trở thành đối tượng cho sự tôn kính như Yukinari. Cây trồng cũng là thực vật, vậy nên Ulrike có nhiều điều để chỉ dậy, và theo một cách nào đó, dường như nhỏ còn hữu ích hơn cả Yukinari.

Dasa và Berta cũng đi cùng họ, nhưng với họ người dân chỉ cúi chào lịch sự. Không hẳn họ xem nhẹ các cô gái mà đúng hơn là, có lẽ, họ chỉ được coi như những người đi theo Yukinari—như là, các thân cận, và do đó là một phần của cậu.

Yukinari dừng lại và gọi một dân làng. “Mới sáng ngày ra mà đã bận rộn rồi nhỉ?” Lúc đầu, Yukinari đã cố nói bằng giọng tôn trọng phù hợp với các cư dân thị trấn lớn tuổi, nhưng có vẻ như chúng hoàn toàn không cần thiết, nên giờ cậu nói với họ một cách suồng sã hẳn. Cậu là một vị thần; cậu không thể tỏ ra quá khiêm tốn được.

“Vâng, chắc chắn chúng tôi chưa bao giờ có nhiều nước như thế này. Tôi chắc năm nay chúng ta sẽ được một vụ mùa bội thu—và điều ấy khiến công việc dễ dàng hơn rất nhiều!” Nghe người đàn ông nói như thể ông ta sắp sửa ngân nga một giai điệu. Mọi người xung quanh đều gật đầu tán thành.

“Rất vui được nghe điều đó,” Yukinari nói, nhìn họ. Cậu thêm, “Có thể chúng ta ở gần thị trấn, nhưng vẫn là bên ngoài những bức tường đấy. Hãy coi chừng á thần và ngoại thú, được chứ?”

“Tất nhiên, thưa chúa tể. Bảo trọng nhé, thổ thần đáng kính!”

“Thế, tạm biệt,” Yukinari vẫy tay chào và lại sải bước qua những cánh đồng.

Giọng Berta, vẻ ngập ngừng, vang lên sau lưng cậu. “Họ đều vui vẻ. Ý em là, ngài có thể dạng như là…”

“Phải, em nói đúng,” Yukinari gật đầu, hơi chút ngạc nhiên. Berta thì—không hẳn là một người suy nghĩ theo số đông, nhưng thật bất thường khi cô tự đưa ra ý kiến hoặc cảm nghĩ của mình khi chưa được hỏi đến. Có lẽ sống cùng Yukinari và những người khác đã thay đổi cô một chút, hoặc có lẽ cô lên tiếng bởi đặc biệt hài lòng trước tình trạng này. Thị trấn nơi cô lớn lên đang ngày càng giàu có thì có vui cũng là điều tự nhiên thôi.

Berta đã có một tuổi thơ bất thường, nhưng có lẽ cô đang dần lấy lại khả năng cảm nhận những cảm xúc bình thường, và đó là điều tốt.

Trong lúc Yukinari suy nghĩ về điều này, một thân hình nhỏ bé chen vào giữa cậu và Berta—là Dasa. “Yuki,” cô nói. “Chúng ta nên khẩn trương lên. Để người khác đợi là… không lịch sự đâu.”

“Ừ, em nói đúng,” Yukinari cười gượng gạo nói.

Dasa có những rào cản xã hội nhất định của riêng mình, mặc dù chúng khác so với Berta. Cả khuôn mặt lẫn giọng nói của cô đều không thể hiện nhiều cảm xúc, nhưng ngay cả Yukinari cũng không chắc chắn chính xác tại sao lại như vậy. Dasa cũng đã được nuôi nấng một cách bất thường hệt như Berta, có lẽ còn hơn cả thế. Là một nhà giả kim, cô nàng đã bị ép phải sống một cuộc đời tù túng, và khi gặp Yukinari, thị giác của cô đã mất. Không nghi ngờ gì tất cả những điều này đều có ảnh hưởng tới cô nàng.

Nhưng cả hai người họ, hiện tại, đều rất quan trọng với Yukinari. Cậu ngạc nhiên khi thấy mình tận hưởng cuộc sống mà bốn người họ—cậu, hai cô gái, và Ulrike—chia sẻ tới mức nào.

Ở thế giới trước của mình, cậu đã chỉ tìm cách để được sống với chị gái. Còn hiện giờ, cậu sống trong một căn nhà với ba cô gái và đang cô dẫn dắt tương lai của cả thị trấn. Điều đó mang lại cho cậu một cảm giác viên mãn.

Nhưng ngay cả vậy…

Hatsune…

Yukinari thấy suy nghĩ của mình hướng về người chị gái đã bị cái chết tước đi khỏi cậu. Hai người họ đã bị kẹt trong lửa không một lối thoát.

Chắc chắn là, chị ấy đã mất. Cả hai đều đã từ trần, nhưng chỉ mình cậu được tái sinh ở thế giới khác này và có thể sống tiếp trong hạnh phúc. Cậu không khỏi cảm thấy tội lỗi về điều đó. Mặc dù đã quá muộn để lo đến những chuyện như vậy. Mặc dù, nhìn lại, cậu biết mình đã chẳng thể làm gì với đám cháy đó.

Dasa đột nhiên lên tiếng. “…Yuki.”

Điều này khiến cậu lại ngước nhìn. Cậu thấy ba dáng hình đang tới từ phía thị trấn.

Rõ ràng là họ không ra ngoài để làm nông. Họ mặc giáp toàn thân và mang kiếm bên hông. Họ không cưỡi ngựa, nhưng rõ ràng là những hiệp sĩ được trang bị để chiến đấu.

“…Híc.”

Dáng hình ở giữa có vẻ đã nhận ra Yukinari và những người còn lại. Tấm che được lật lên, để lộ ra khuôn mặt. Hắn có mái tóc vàng và biểu hiện cho thấy sự dạy dỗ có học thức—xấu tốt thế nào, tên trai trẻ này là con trai quý tộc. Hắn đẹp trai, nhưng hơi kiêu ngạo, hoặc có thể nói là hào hoa—bất cứ lúc nào, vẻ ngoài và cử chỉ kiêu kỳ của hắn đều để lại ấn tượng không thân thiện.

Tên hắn là Arlen Lansdowne. Hắn vốn là một hiệp sĩ truyền giáo thuộc về một tổ chức tôn giáo mang tên Giáo Hội Chân Chính Harris. Thực ra, ngay cả lúc này, hắn vẫn được cho là một phần của Giáo Hội, dù chỉ dạng như mặt bề ngoài.

Ban đầu hắn được gắn kết với một đơn vị mang tên Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa, với nhiệm vụ truyền bá sự thật cao quí của Giáo Hội tới đám người man rợ vô học vùng biên cương với những phong tục mọi rợ. Đó là lí do tại sao họ tới Friedland. Nhưng bất kể mọi lớp ngụy tạo, cơ bản là họ tới đó để cải giáo người dân bằng vũ lực.

Những nhà truyền giáo phủ nhận giáo phái thổ thần, và cuối cùng thành ra tấn công Yukinari, người được cho là giữ chức thổ thần ở Friedland.

Yukinari đã đánh bại họ một cách đường đường chính chính. Không những áp đảo các hiệp sĩ, cậu còn phá hủy tượng thánh bảo hộ, một binh sĩ cơ khí được cho là vũ khí tối thượng của các hiệp sĩ. Dĩ nhiên, Dasa có giúp, nhưng có thể nói Yukinari đã một mình đánh bại sức mạnh của cả quân đoàn.

Ngay cả vậy, chiến thắng này chỉ đại diện cho sự thất bại của một phi đội duy nhất. Đằng sau họ tổ chức tôn giáo khổng lồ ấy, Giáo Hội Chân Chính, vẫn ẩn hiện, và nếu phát hiện ra Đoàn Viễn Chinh Khoa Hóa mạnh mẽ của mình đã bị đánh bại, chúng sẽ chỉ càng được nước phát đi một lực lượng còn lớn hơn.

Vậy nên Yukinari đã nảy ra một ý tưởng. Cậu sẽ không giết Arlen và những người khác, nhưng đổi lại, họ sẽ gửi một báo cáo giả khẳng định rằng Friedland đã bị khuất phục một cách an toàn. Các đơn vị hùng mạnh của Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa nói chung ở lại để lập đồn trú cho các cuộc chinh phạt của họ, vậy nên nếu không ai quay lại thì cũng không có gì đáng nghi cả. Các hiệp sĩ phải sống, cũng như giữ thể diện, vậy nên không một ai ở tổng cục cần phải biết rằng họ đã thất bại trong nhiệm vụ. Đồng thời, Yukinari và những người khác sẽ an toàn trước những sự để ý sâu hơn của Đoàn Viễn Chinh.

Tất cả những điều này đồng nghĩa với việc các hiệp sĩ đảm nhiệm một vị trí bất thường ở Friedland. “Thế nào rồi, Arlen?” Yukinari gọi kẻ thù trước kia của mình. “Hết phiên trực hả?” Hiện tại các hiệp sĩ đang chịu trách nhiệm giám sát sự an toàn của Friedland và các khu vực xung quanh. Quả như Yukinari đã cảnh bảo vài cư dân thị trấn lúc trước, á thần và ngoại thú làm tổ ở ngoài các bức tường thị trấn, chưa kể đến các loài thú hoang nguy hiểm. Một mình Yukinari không thể bảo vệ hết tất cả mọi người làm việc trên các cánh đồng, nên cậu đã nhờ Arlen và những người khác tuần tra khu vực theo định kỳ.

Đây là một trong những việc mà đơn vị đằng nào cũng sẽ làm sau khi họ cải đạo Friedland. Do đó, các hiệp sĩ đã chấp thuận có phần sẵn lòng, dù vẫn còn chút do dự trước việc chấp nhận yêu cầu của Yukinari. Dù thế nào, trong mắt họ thế vẫn còn tốt hơn là làm nô dịch cho mấy công việc tầm phào xunh quanh thị trấn, giống như hồi trước.

“…Ừm.” Arlen không hề cố gắng che giấu đi sự khinh khi trên khuôn mặt mình hay qua giọng nói. Hai người đằng sau hắn vẫn để che mặt, không thấy được biểu hiện ra sao, nhưng khả năng cao là cũng giống Arlen. Sự thật là, họ đã trở thành tòng phạm với Yukinari khi chuyển đi cái báo cáo giả đó, nhưng vẫn cứ nghĩ mình là hiệp sĩ truyền giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris. Nếu nước có đến chân thật, họ luôn có thể bảo rằng Yukinari đã đe dọa họ.

“…Ta không thể tin một kẻ như ngươi lại là thần,” Arlen lẩm bẩm. “Ít ra cũng phải chú ý chút đến cách hành xử của mình chứ.”

“Cách hành xử?” Yukinari hỏi, nhướn mày. “Ý ngươi là sao?”

“Nói thế nào ý thế nấy! Ngươi vô vọng rồi!”

“Nè, Lansdowne…” Các hiệp sĩ đằng sau gọi tên hắn có phần hoảng hốt, nhưng hắn mặc kệ.

“Có thể nói những con người vùng biên giới này mê tín một cách thái quá, nhưng ngươi là đối tượng tôn thờ của chúng đấy! Muốn làm thần thì phải làm cho giống đi chứ! Có thế thôi mà cũng không hiểu sao?!”

“‘Làm cho giống’…?”

Định nghĩa “thần” là một thứ rất mơ hồ. Nó chỉ đơn giản là một khái niệm để mọi người gọi cho tiện các thực thể mạnh hơn mình, nên những gì đủ để được gọi là “thần” có thể khác biệt từ người này qua người khác.

Giáo Hội Chân Chính Harris, nơi mà Arlen và các hiệp sĩ khác thuộc về, là một đức tin độc thần, nhưng Vị Thần của họ đơn giản là thứ họ tôn thờ; chẳng có ai thực sự tuyên bố mình là hiện thân của vị thần cả. Hiểu theo nghĩa đó, Giáo Hội Harris rất giống với các tôn giáo mà Yukinari quen thuộc.

Trái lại, thế giới này còn là nhà của thổ thần và á thần, các thực thể có thể thấy bằng mắt thường. Dĩ nhiên, có những ngại lệ, nhưng đa phần chúng đều là thú hoang đã sống thật lâu và tích trữ một lượng lớn sức mạnh tâm linh. Hình dạng vật lí cũng như tính cách của chúng đa dạng, và số lượng thì không ngừng biến động. Một con thú hoang có thể “tốt nghiệp” để trở thành thần, trong khi các vị thần khác có thể chết hoặc tan biến vì bất kì lí do nào. Nếu phải phân loại, thì về bản chất nó là một loại đa thần.

Tất cả những điều này chỉ để thể hiện sự đa dạng to lớn về khái niệm “thần”. Không hẳn Yukinari nghĩ rằng có bất cứ luật lệ nào bắt nó phải là thế này hoặc thế kia.

“Thần thì phải có phẩm giá!” Arlen nói, siết nắm tay lại để nhấn mạnh ý của mình.

“Chắc thần của ngươi thì có,” Yukinari nói không hề tỏ ra thù địch, “còn ta thì thuộc một kiểu thần khác…”

“Tuy cảm thấy bẩn thỉu khi so sánh cả hai với nhau, nhưng cả đức tin chân chính của bọn ta và thứ man rợ của các ngươi đều là tôn giáo! Chính xác phải nói sau cùng phẩm giá mới là điều khiến thứ gì đó đáng để tôn thờ!”

“Ừ… hứm.”

“Nó truyền cảm hứng bởi vì nó khác biệt. Và nó được tôn trọng vì nó truyền cảm hứng. Nó dùng sức mạnh của mình để áp đảo, điều khiển, và cuối cùng là thống trị mọi thứ xoay quanh! Thế mới là một vị thần. Và nhìn lại mình xem. Trò chuyện với lũ bần nông như kiểu bè bạn. Đừng có làm thế! Cách hành xử của ngươi chỉ đang làm giảm giá trị sức mạnh của ngươi mà thôi!”

Một khoảng lặng lẽ kì quặc. Yukinari chẳng thể hiểu tại sao Arlen lại lưu tâm vấn đề này đến thế. Rõ ràng là, hai người vốn không có quan hệ thân thiết, nhưng cậu đã mong đợi rằng Arlen, giống như hai hiệp sĩ còn lại, sẽ tránh nói điều gì có thể làm cậu phiền lòng. Song có vẻ là, Arlen bực bội trước hành vi của Yukinari đến mức lờ đi mọi đe dọa đến tính mạng và cứ thể tuôn ra mọi suy nghĩ bảo thủ của mình. Có lẽ hắn có thể làm điều này chính xác là vì Yukinari, theo cách nói của Arlen, đang thiếu đi phẩm giá đáng sợ của một vị thần.

Mặt khác, điều Arlen nói cũng không phải hoàn toàn vô lí. Ý nghĩ chợt xảy đến với Yukinari. Như đã đề cập, cậu đã thôi dùng cách ăn nói lịch sự và trang trọng với dân làng cao tuổi hay bất cứ ai thường thì phải nhận được điều đó. Cậu đã chấp nhận vai vế của một vị thần, dù chỉ tạm thời, và có khả năng mọi thứ sẽ trôi chảy hơn nếu cậu diễn sâu hơn vai của mình.

Cơ mà…

Arlen vẫn đang múa mép. “Suy cho cùng ngươi—” “…Im đi.”

Không phải Yukinari, mà Dasa là người lên tiếng. Cô đang lườm Arlen từ sau cặp kính.

Tức thì, hai hiệp sĩ phía sau Arlen nhảy chồm lên và chế ngự hắn. “Rất xin lỗi,” một người nói.

“Chúng tôi bảo hắn suốt rồi mà,” người kia thêm vào.

Hai người đều cúi đầu và nhanh chóng đi qua nhóm của Yukinari, kéo tuột theo Arlen—người có vẽ vẫn chưa thực sự nói xong. Chỉ khi đó Yukinari mới thấy trên bộ giáp của một hiệp sĩ có thủng một lỗ—cụ thể là, ở chỗ thắt lưng.

Một lỗ đạn.

Gã hẳn là một nhà truyền giáo bị Dasa bắn lúc mới đến Friedland. Nói cách khác, gã đã có được trải nghiệm đầu đời về sức mạnh của những viên .44 Magnum bắn ra từ Ớt Đỏ của Dasa và Durandall của Yukinari—cách mà chúng có thể xuyên thủng giáp.

Có vẻ là, hiệp sĩ không muốn chọc giận Dasa lần nữa.

“Em còn giống thần hơn cả anh đấy, Dasa,” Yukinari ngẫm nghĩ nói. Dasa nhìn cậu vẻ thắc mắc.

“Mà thôi kệ. Mau đi thôi.” Yukinari mỉm cười và đẩy nhẹ vào lưng Dasa, và họ lại bước

Người phụ nữ trẻ tuổi đưa ra phán quyết của mình về tình trạng của Friedland: “Mọi thứ đang tiến triển tốt.”

Mái tóc vàng óng bóng mượt của cô rạng ngời dưới ánh nắng rót vào từ cửa sổ.

Cô rất xinh xắn.

“Cây trồng đang phát triển ở những cánh đồng mới như dự tính, và chưa hề có báo cáo nào về việc trông thấy á thần hay ngoại thú. Nếu cứ tiếp tục thế này, chúng ta có thể mong chờ từ hai đến ba mươi phần trăm mùa vụ gia tăng.”

Không chỉ là đường nét cân xứng. Cô nói không hề vấp, và nét mặt thì rõ ràng. Cô rõ ràng là thông minh, và mọi cử động đều toát lên sự tinh tế. Việc không những cô được dạy dỗ cẩn thận mà còn trí thức sẽ trở nên rõ ràng chỉ sau một cuộc trò chuyện ngắn. Chưa kể, sức mạnh cá tính của cô thể hiện rõ nhất ở đôi mắt ngọc lục bảo.

Theo một vài cách hiểu, tất cả những điều này hoàn toàn hiển nhiên. Cô xuất thân từ một dòng dõi và sở hữu một cơ ngơi mà ở thế giới của chúng ta, có thể nói cô là một công chúa.

Đây là Fiona Schillings, con gái của thị trưởng Friedland đồng thời là người lãnh đạo ủy quyền hiện tại của thị trấn.

Phần lớn, các “thị trưởng” của những khu vực hẻo lánh này là những vị vua hoặc quý tộc của các quốc gia nhỏ từng tồn tại trong quá khứ, rồi đơn giản là được gán cho một chức danh mới. Nhà Schillinsg đã quản lý Friedland qua nhiều thế hệ mà không gặp phải bất kì sự phản đối cụ thể nào từ dân làng, và thế là họ cứ tiếp tục làm thị trưởng.

Trước tình trạng sức khỏe đi xuống của cha, khiến ông liệt giường, hiện giờ Fiona về cơ bản là nắm trong tay trách nhiệm của gần như mọi khía cạnh của đời sống thị trấn.

“Ờm, nghe hay đấy,” Yukinari nói, ngồi ngay đối diện cô. Dasa ngồi bên trái và Ulrike bên phải cậu, và Berta cũng ở đó. Nhóm mấy người họ đã vào thị trấn để thảo luận một số vấn đề với Phó Trị Trưởng Fiona.

“Mà chỉ tầm hai ba mươi phần trăm thôi à?” Yukinari nói. “Tôi không mong là nó sẽ gấp đôi, nhưng có khi cũng phải hơn chút.” Cậu cười trừ.

Mương thủy lợi đã được đào. Phân bón đã đâu vào đấy. Ruộng đã nhiều lên. Yukinari và người Friedland đã nỗ lực rất nhiều để thay đổi môi trường, nhưng vẫn không rõ liệu họ sẽ thấy được sự tăng trưởng tương ứng trong mùa vụ hay không. Số lượng dân làng—số lượng những người có thể làm nông—là không đổi, nên có lẽ chỉ là họ không đủ nhân lực.

“Logic thì là logic thôi,” Fiona nói, không có vẻ bận tâm mấy. Mà nếu có, nụ cười lém lỉnh của cô cho thấy hai ba mươi phần trăm quan trọng tới mức nào. “Có rất nhiều thứ chúng ta không thể biết chắc cho đến khi thử. Nhưng thậm chí mười phần trăm sản lượng cũng là lớn rồi.”

“Mà, thế nghe có vẻ tốt hơn chút,” Yukinari nhún vai nói.

Như đã nói, cậu có thể đảm nhiệm trọng trách canh giữ thị trấn thay cho thổ thần, nhưng lại thiếu khả năng để hoàn thành các vai trò khác—khiến cho đất đai màu mỡ. Cậu chẳng có cách nào để đảm bảo cho dân làng một kết quả cụ thể như vị thổ thần trước làm dưới hệ thống hiến tế sống.

Kết quả của việc cứu một người—Berta—khỏi nanh vuốt của một thổ thần ăn thịt người, là hàng chục hàng chăm người khác có thể chết vì đói. Nếu điều đó xảy ra—thì, tính toán rõ là vô ích rồi.

“Tiếp đến là giao thương,” Fiona nói, liếc nhìn về phía Ulrike. “Tôi rất vui khi được nói rằng người Rostruch đã tỏ ra hứng thú với một vài vật phẩm chúng ta gửi cho họ. Đổi lại, họ sẵn lòng cho chúng ta lương thực, cũng như hạt giống và mầm chúng ta có thể trồng tại ruộng của mình.”

“Tin tốt nữa đây. Đồng ruộng sẽ chẳng có ích gì nếu chúng ta không có thứ để trồng trong chúng đâu.”

Sự đa dạng cây trồng rất quan trọng dù là từ quan điểm dinh dưỡng hay phòng chống thiên tai. Dinh dưỡng chứa đựng trong mỗi loại cây trồng đều khác biệt hẳn, và trong khi một số loài cây chịu lạnh tốt, những loài khác lại dễ dàng chịu được nắng gắt. Mang tới những loài cây khác bổ sung vào vốn cây trồng truyền thống của người Friedland sẽ giúp giải quyết cả hai mối lưu tâm này.

Các cánh đồng đã được mở rộng không chỉ để cải thiện thu hoạch, mà còn để tạo ra vài khoảng trống cho việc thử nghiệm những sản phẩm mới.

Đa phần cư dân thị trấn không nắm bắt được chi tiết, nhưng Fiona, người từng được giáo dục tại thủ đô, đã nhanh chóng hiểu được ý đồ của Yukinari. Cô có trực giác tốt và dễ tiếp thu. Cô cũng giỏi áp dụng kiến thức của mình. Một lí do giúp Yukinari có thể đưa những ý tưởng này vào thử nghiệm là vì cô ở đó để giúp cậu.

“Tuyến giao thương xem chừng cũng không có vấn đề gì cả,” cô nói. “Lãnh Chúa Yggdra đang xua đuổi á thần và ngoại thú, và các hiệp sĩ truyền giáo có vẻ như đang rất nghiêm túc thực hiện công việc của mình.”

“Ừ, tôi cũng thấy thế,” Yukinari nói, nghĩ lại lúc bắt gặp Arlen với mấy hiệp sĩ khác.

Cậu đã quyết định hỏi ý các hiệp sĩ truyền giáo làm hộ vệ cho việc giao thương với Rostruch, cũng như tuần tra các khu vực canh tác. Quả thực, họ đã tới đây với tư cách những kẻ xâm lược tôn giáo và cậu vẫn chưa thể đặt niềm tin hoàn toàn vào họ, song thế này ít ra còn có chút tốt hơn là tước đi vũ khí để gông họ vào xích như nô lệ. Họ là hiệp sĩ, và chiến đấu là việc của họ. Họ là những ứng cử viên lí tưởng cho việc tuần tra và bảo vệ.

“Cũng không có gì đáng lo ngại với các thân cận.” Lời này đến từ Ulrike. Bản thân nhỏ dạng như là một thiết bị đầu cuối—ấy là, thân cận—cho Yggdra, và việc nhỏ có thể nói và hành động tại đây, xa khỏi Rostruch, là vì có một chuỗi các thân cận “trung gian” được đặt tại các khoảng nhất định dọc theo tuyến giao thương.

Những thân cận này không chỉ đóng vai trò chuyển tiếp giữa Yggdra và Ulrike, mà còn giúp bảo vệ tuyến giao thương. Họ tỏa ra hào quang của Yggdra, cơ bản là để đánh dấu tuyến đường như một phần lãnh địa của thổ thần và xua đuổi các á thần và ngoại thú có ý định lại gần.

“Chúng tôi có ý định xây một ngôi đền cho các thân cận còn lại càng sớm càng tốt,” Fiona nói.

“Mm,” Ulrike đáp.

Hầu hết các thân cận trung gian hiện đều đang sống ở ngoài. Yggdra là một cái cây, nên nắng mưa không có vẻ làm phiền các thân cận cho lắm, nhưng cũng không lịch sự lắm khi để các sứ giả của một vị thần sống ngoài trời. Fiona và cư dân thị trấn là đề xuất một chuỗi các ngồi đền đơn giản sẽ mang lại cho các thân cận một nơi để sống đồng thời có tác dụng đánh dấu tuyến giao thương.

Một ý nghĩ nảy ra trong đầu Yukinari: Cứ y như là mấy bức tượng Jizo ở trong các ngôi đền ven đường ở Nhật Bản.

Ở thế giới trước của Yukinari, Nhật Bản, từng có một thực thể tôn giáo dân gian gọi là Dosojin, “thần của tổ tiên và những con đường.” Đôi khi còn được gọi là “thần vệ đường,” ngài bảo vệ các đường biên, đảm bảo các gia đình phát triển, và giữ an toàn cho du khác. “Jizo” là tên tiếng Nhật của bodhisattva Kshitigarbha, từ Phật giáo, nhưng ngài đã hợp nhất với giáo phái Dosojin, và hiện có thể được thấy ở những ngôi đền nhỏ rải rác dọc đường.

“Cái gì thế?” Ulrike nhìn cậu thắc mắc. Yukinari nhận ra hẳn là mình đang cười.

“Ồ, không có gì đâu. Chỉ là thấy hơi giống ông thần này ở quê anh ấy mà.” “A. Giờ mới thấy thú vị nhất nè,” Ulrike nói, tì vào.

“Ế, thôi để lần khác nhé.” Cậu đổi chủ đề. “Cô biết không, trên đường tới đây bọn tôi đã gặp Arlen đấy.”

“Và tôi cho là hắn rất lịch sự với anh,” Fiona cười toe toét. Fiona và Arlen tình cờ biết nhau. Họ từng là bạn học ở học viện tại thủ đô, và cô chưa bao giờ thấy hắn biết giữ mình, ăn nói thì cực đoan.

“À, ừ, lịch sự chết đi được ấy,” Yukinari nói lảng, liếc sang Dasa. Đừng nói gì, ánh nhìn như muốn nói. Arlen vốn hung hăng, phải, nhưng Yukinari không có kiểu mách lẻo mọi tội trạng nhỏ của đám hiệp sĩ với Fiona. Mà thực ra, mọi chuyện có lẽ sẽ tệ hơn nếu cậu không coi chúng như nước dưới chân cầu. Nếu Yukinari bảo Fiona chuyện xảy ra, cô sẽ cảm thấy buộc phải trừng trị Arlen, và rồi quan hệ giữa cư dân thị trấn và các hiệp sĩ, hiện đang có vẻ từ từ cải thiện, sẽ lại đổ vỡ. Cậu muốn tránh điều đó.

“Vậy có vẻ là chúng ta đã bắt đầu đặt nền móng rồi,” Yukinari khoanh tay nói. “Câu hỏi tiếp theo là xây cái gì. Và tôi có một ý tưởng.”

“Vậy sao?”

“Phải. Chỉ là một thứ nho nhỏ tôi muốn thử trên một vài cánh đồng đã cấy thôi. Tôi muốn có sự chấp thuận của cô.”

“Không cần thiế. Nếu anh muốn làm gì đó, Yukinari, không một ai trong chúng tôi có quyền để cản anh cả. Anh muốn thử gì vậy?”

“Tôi muốn chế tạo một thứ từ kiến thức của mình. Dùng nó để bao bọc đất trồng.”

“Bao bọc á…? Để giữ nhiệt à?” Fiona nhướn mày. Có vẻ là cô đang lướt qua một vài viễn cảnh khả thi trong đầu mình. “Bằng tất cả sự tôn trọng, Yukinari, nếu che đậy mặt đất, thì sẽ không có đủ ánh sáng để cây trồng phát triển mà, phải không?”

Ở Friedland có truyền thống định kỳ sử dụng các mảnh vải hoặc ván gỗ để phủ lên các cánh đồng nhằm giữ nhiệt và ẩm, nhưng Yukinari đang nghĩ về một thứ hoàn toàn khác.

“Cô đúng đấy, nếu như chúng ta đang nói về vải hay ván gỗ gì đó.” Yukinari chỉ vào cặp kính của Dasa, những miếng thủy tinh nằm trên mặt cô nàng. “Nhưng tôi đang nói về kính. Tôi sẽ tạo ra thật nhiều kính và xây một cái nhà kính.”

“Nhà kính…? Ồ, anh biết không, tôi đã thấy một cái ở thủ đô rồi. Họ đang dùng nó để trồng hoa ở phía nam. Ý anh là vậy hả?”

“Đúng, cùng ý tưởng.”

Giao thương và thương mai đã mang nhiều thứ tới thủ đô. Trong số chúng là cây trồng và động vật từ khắp nơi, được mang tới để thỏa mãn tính tò mò và tiêu khiển cho quý tộc. Nhưng điều đó khiến chúng chẳng hơn gì thú vui của đám nhà giàu, và nhà kính là một trong số đó.

“Nhưng mà nhà kính để trồng hoa, chúng khá nhỏ, phải không? Có khi chỉ bằng cỡ một phòng?”

“Phải…” Fiona gật đầu, vẻ mặt đầy ngạc nhiên. “Chắc là anh không định làm một cái đủ lớn để bao cả cánh đồng chứ?”

“Chứ còn gì. Và nó bằng kính nhé, thế nên ánh sáng vẫn vào được.” Cậu bật cười.

Dasa, vốn im lặng nãy giờ, đột nhiên lên tiếng. “Một ngôi nhà làm bằng… kính. Nó có thể cho phép đủ ánh sáng đi qua để cây cối phát triển, nhưng vì nó là cấu trúc tường, nên cũng có thể… giới hạn dòng không khí. Mở và… đóng một cánh cửa có thể giữ nhiệt độ… và độ ẩm ở mức độ cần thiết cho canh tác.”

“Cô đang bảo…”

“Dĩ nhiên, nó cũng có thể cách li… bọ.”

“Nó làm vậy được sao?” Có vẻ như đến cả Fiona cũng chưa nghĩ tới điều này. Một cấu trúc có thể cách li côn trùng có hại sẽ đòi hỏi một mức độ cô lập tương đối. Để mà nói Fiona còn chưa tưởng tượng được một cái nhà kính đủ lớn cho cả cánh đồng, chắc chắn cô chưa thể hình dung một cái nhà kính đủ kín để ngừa bọ sẽ ra làm sao.

Đây là lúc mà quãng thời gian làm trợ lí cho nhà giả kim của Dasa trở nên tiện ích. Cô nàng đã khá quen với các bình đựng kín khí và thiết bị thí nghiệm thủy tinh được thiết kế để ngừa vi khuẩn. Có lẽ cô nàng coi thứ này tương tự ở một tỉ lệ lớn hơn.

Miễn là Yukinari chế tạo được các mảnh ghép, thì chẳng phải lo việc làm cho chúng đạt được dung sai cần thiết. Từ các bộ phận của khẩu súng cho tới thấu kính nhân tạo cho mắt người, miễn là biết cách chế tạo thứ gì đó, cậu có thể làm nó chính xác đến từng micron.

“Với nhà kính, chúng ta có thể tiếp tục trồng trọt ngay cả khi trời lạnh. Chúng ta vẫn phải cẩn thận không để đất cạn kiệt, nhưng nên có khả năng trồng cây quanh năm, bất kể mùa màng, và như vậy tức là tăng sản lượng.”

“Chắc là anh đúng.” Fiona nói, chớp mắt. “Chỉ là tôi chưa bao giờ có ý tưởng bao bọc cả cánh đồng trong kính thôi.”

Ở thế giới này, kính, đặc biệt là loại rất trong suốt, là một chất liệu quý. Để có được nhiều thì thường đỏi hỏi một khoản tiền lớn. Sẽ chẳng có ai nghĩ đến việc dùng một tài nguyên hiếm như vậy chỉ để xây một ngôi nhà quanh cánh đồng.

“Dĩ nhiên, chỉ kính thôi là không đủ lực. Chúng ta sẽ cần cột chống và khung để giữ mọi thứ lại.”

Kính thì nặng. Dĩ nhiên, một bộ phận chống đỡ làm từ thân cây lớn có khi là đủ, nhưng để tối đa hóa diện tích bề mặt tiếp nhận ánh sáng, tốt hơn hết là làm khung từ thứ gì đó như thép.

“Thế, tôi sẽ để anh lo vụ nguyên liệu,” Fiona nói. “Nhưng tôi sẽ lo phần nhân lực. Nếu không có đủ người, cứ nói tôi một tiếng.”

“Nghe ổn đấy. Cảm ơn.”

“Tôi biết là mình cứ nói điều này mãi.” Fiona nói với nụ cười gượng gạo. “Nhưng tất cả những gì anh thực sự phải làm là ra lệnh thôi, Yukinari. Anh không cần phải cảm ơn chúng tôi gì cả. Anh là thần của chúng tôi mà.”

Yukinari thấy mình không nói được gì cả. Theo quan điểm của cậu, tất cả những việc canh tác và giao thương này là một cách để bù đắp cho việc xuất hiện ở Friedland, giết thổ thần của họ, và một mình phá bỏ tôn giáo của họ trước khi thực sự biết bất cứ điều gì về nó. Cậu không hối hận khi cứu Berta, nhưng lại cảm giác rằng mình phải lãnh trách nhiệm cho kết quả của hành động của mình. Nên cậu không, thực sự, thấy mình ở vào một vị trí để ra lệnh cho dân làng thông qua Fiona. Cậu nghĩ mình như là đang đưa ra yêu cầu hoặc nhờ giúp đỡ.

Chắc đây chính xác là điều khiến cho Arlen nổi khùng, cậu nghĩ. Nếu một vị thần không hành động một cách có thẩm quyền—thậm chí cao ngạo—nghi hoặc có thể dấy lên giữa những người theo. Chừng nào còn định đóng vai trò của một vị thần, cậu sẽ phải chia cách bản thân khỏi cảm xúc cá nhân của mình về nó.

Không phải là mình háo hức muốn làm đâu…

Suy nghĩ của Yukinari bị gián đoạn bởi tiếng đập cửa. “Xin lỗi—xin lỗi, làm ơn!” Người đàn ông lao vào phòng.

“Sao thế?” Fiona nói, nhìn người đàn ông vẻ trách móc. “Ngươi đang rất thô lỗ đấy.”

Song người đàn ông rõ ràng là không quan tâm mấy đến lễ nghĩa ở thời điểm đó. “T—Tôi rất xin lỗi. Nhưng có điều tôi phải nói, Cô Fiona, và gấp. Nếu thổ thần đáng kính cũng ở đây, thì càng tốt. Hãy cùng tôi đến vùng ngoại ô của thị trấn!”

Không không hẳn giống một yêu cầu lắm. Nếu anh ta nghĩ tốt nhất Yukinari phải có mặt ở đó, thì tức là khả năng cao một á thần khác đã tấn công.

Dù thế nào, sự hoảng hốt của người đàn ông mách bảo Yukinari mọi điều cậu cần phải biết về tình hình. Cậu, Dasa, và những người còn lại liền đứng dậy.

Điều đầu tiến họ nghe thấy là tiếng thép va vào thép. Nếu chỉ có thế, thì dễ có khi là thợ rèn hay thợ mộc đang làm việc. Nhưng nó còn kèm theo cả tiếng la hét, mang lại một khung cảnh hoàn toàn khác đến với sự hình dung.

Người đàn ông dẫn Yukinari và những người khác tới một cánh cổng xây tại những bức tường của Friedland, dù không phải là cái mà nhóm của Yukinari đã đi qua lúc nãy. Chỉ có một cổng chính duy nhất dẫn tới đường chính, nhưng còn một số cổng nhỏ hơn, với các lối đi dẫn ra đồng và khu vực xung quanh.

Họ thoát qua một cổng và đi dọc theo con đường dẫn tới những ngọn núi, và sớm đến với hiện trường của vấn đề.

Arlen và hai hiệp sĩ đi tuần còn lại quay lưng về phía nhóm người đang tiến đến. Cả ba đều rút kiếm ra và giương tấm khiên nhỏ. Đối đầu với họ, vũ khí trong tay, chỉ có… một người duy nhất.

“Các ngươi là ai…?”

Đối phương đang mặc áo choàng dày, và một chiếc mũ trùm kín mắt, nên khó mà nhận ra được gì từ họ. Nhưng xét theo thế đứng, về ngoại hình họ không lớn lắm. Luôn có khả năng họ đang mặc giáp dưới bộ đồ đó, nên khó mà đánh giá chính xác, nhưng hẳn là họ cao ngang Yukinari, và tay chân thì cỡ trung bình.

Trong tay họ là ngọn thương—mà không, một vũ khí lai được gọi là kích. Nó không chỉ đâm bén, mà còn quét tốt. Tầm đánh của nó mang lại cho người cầm một lợi thế trước người cầm kiếm trong nhiều trường hợp, nhưng khi chiến đấu ở không gian hạn chế, chiều dài có thể là gánh nặng.

Chiếc áo choàng của người ấy có vài mảng đỏ thẫm hình như là máu. Một tên cướp, chăng? Nhưng người đó có vẻ đang đối chọi ba hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo mà chẳng hề kém cạnh chút nào, và rõ ràng là được huấn luyện cách sử dụng kích.

Một rung chuyển lan tỏa giữa những người tham chiến khi Áo Choàng chọc. “Hây a!”

Arlen né qua một bên ngay trước khi bị mũi kích xiên phải. Thứ vũ khí sượt qua giáp của hắn trong một loạt mưa lóe sáng. Trong khi đó, các hiệp sĩ hai bên hắn thấy đối thủ tràn lên, đối với họ hẳn trông như là một vị trí rất sơ hở, bèn tấn công.

Cấu trúc cơ thể con người khiến người ta di chuyển về phía trước nhanh hơn là lùi lại, còn khó hơn nếu đang cầm một ngọn thương dài. Hai người tấn công đang trông cậy vào điều này.

Nhưng Áo Choàng đã phản bội sự mong đợi của họ. Người ấy không tiến lên hay lùi lại. Họ hạ thân xuống hết mức có thể, đánh sang phải và trái. Rồi họ thu kích lại, dướn người ra đồng thời xoay bằng gót chân. Điều này cho phép ngọn kích đánh trúng cả hai hiệp sĩ trong một đường quét.

Cả hai người đã dồn trọng lượng về phía trước, và đòn đánh quật họ lăn ra đất. Dù toàn thân mặc giáp nhưng họ vẫn sốc ra mặt, và yên vị đó, khẽ rên rỉ.

Nhưng Áo Choàng vẫn chưa xong, liền lại thế đánh với ngọn kích và quay lại phía Arlen. Hắn tấn công, nhưng ngọn kích dễ dàng phản lại kiếm của hắn; hắn không thể với tới đối thủ của mình. Hắn cố đôi ba lần, trong lúc hai hiệp sĩ kia đứng dậy trở lại, nhưng rồi họ lại trở về điểm xuất phát.

“Quái nhân phương nào vậy nhỉ…?”

Ba hiệp sĩ vs một người, mà vẫn không thắng nổi. Bởi vì các hiệp sĩ tấn công cùng lúc, Áo Choàng không có thời gian để tung đòn kết liễu; hiện tại, họ đang ở thế bí.

“T—Tôi không biết, nhưng khi phát hiện ra tình hình, thì họ đã như thế này rồi…”

Có vẻ là, việc này đã diễn ra được một lát. Cơ mà…

Có thể họ ngang kèo, nhưng người đó sau cùng sẽ phải mệt thôi.

Đúng như cậu dự đoán, chuyển động của Áo Choàng đang dần có chút chậm chạp hơn. Là ba đấu một. Rõ ràng là phe một sẽ hết năng lượng trước.

“Hây a!”

Arlen hẳn cũng đã nhận ra điều đó, bởi hắn vung kiếm nhảy bổ tới. Hắn không nhắm vào đối phương, mà vào cây kích. Chắc chắn hắn đang nghĩ rằng kẻ địch không thể đỡ hết mọi đòn của mình với nó.

Tiếng rít kim loại vang lên, cây kích tuột khỏi tay Áo Choàng. Thế là xong—hoặc có lẽ, nhưng trước khi vũ khí chạm đất, Áo Choàng rút ra một thanh trường kiếm vốn giấu dưới lớp áo ngoài và tấn công.

Như vậy tức là kẻ địch không quá gắn bó với một vũ khí nào và có kĩ năng tự nhiên nhanh chóng để phản ứng trước mọi tình huống.

“Hự!” Arlen né đòn, mặt trông hoảng hốt. Đòn kế tiếp đến. Bằng cách nào đó hắn né được, giật lùi lại. Nếu đây là một cuộc chiến một đối một, chắc hẳn đòn kế tiếp đã kết thúc nó rồi.

“Ya!” Hai người còn lại đâm tới, yểm trợ cho Arlen rút lui. Nhưng Áo Choàng đã thấy sự khác biệt nhỏ giữa tốc độ đánh của họ và dễ dàng trả miếng. Những đòn của Áo Choàng rõ là nhanh hơn với một thanh kiếm.

“Thế này…”

Đây không phải là một đối thủ bình thường. Mà là một chiến binh dày dạn kinh nghiệm thực chiến, thành thạo một số vũ khí khác nhau.

Yukinari đã cho Arlen và những người khác vũ khí Durandall như của mình phòng khi họ chạm trán bất kì á thần nào khi đi tuần, nhưng trông các hiệp sĩ không có vẻ là sẽ dùng chúng. Có lẽ họ ngần ngại sử dụng một vũ khí không quen thuộc, hoặc có lẽ họ cảm thấy mình không thể ngắm súng vào một đối thủ con người.

Yukinari quyết định đã đến lúc xen vào. “Có chết thì do dữ cũng chẳng ích gì đâu! Dùng Durandall đi!”

Tiếng hét của cậu dường như nhắc nhở Arlen và những người còn lại rằng họ đang mang vũ khí mạnh mẽ, bởi hai hiệp sĩ lui lại và rút súng ra từ bao đựng trên lưng.

Nhưng Áo Choàng không dừng lại.

Dễ hiểu thôi, theo cách của nó. Súng không hề được biết đến ở thế giới này cho đến khi Yukinari mang chúng tới. Áo Choàng có lẽ nghĩ Durandall chỉ là những thanh kiếm được làm cẩu thả. Trên thực tế, tư thế bắn cho một khẩu súng hẳn trông cực kì sơ hở.

Áo Choàng rút ngắn khoảng cánh chỉ trong khoảnh khắc. Tốc độ ngăn không cho hai tay súng ngắm cẩn thận, và họ hốt hoảng bóp cò.

Hai vụ nổ gây ra bởi đạn .44 Magnum đi nhanh hơn tốc độ âm thanh xé gió. Ngay cả một xạ thủ kinh nghiệm, cũng còn thấy rất khó để bắn trúng một mục tiêu di động. Và khi bắn vội vã, mà không dành thời gian để ngắm trước, phát bắn khó lòng mà trúng được.

Quả nhiên, cả hai phát đều trượt. Việc một viên thực sự sượt qua mũ trùm đầu của Áo Choàng đã là một phép màu. Nó xé toạc vải và hất cái mũ ra, để lộ mặt Áo Choàng, nhưng họ không có dấu hiệu bị đe dọa bởi điều này. Một thoáng ngạc nhiên trước tiếng ồn lớn, nhưng vì Áo Choàng chưa thấy đạn, họ không nhận ra nó thực sự đáng sợ—nguy hiểm—đến mức nào.

Yukinari thốt lên ngạc nhiên khi thấy mặt Áo Choàng. “Ấy là…”

Điều đầu tiên cậu nhận ra là tóc, đỏ đến mức như đang bốc cháy. Nó xõa thành đuôi sang hai bên mặt, nhưng phần lớn tóc thì ngắn, để không cản trở chuyển động. Đôi mắt hạnh nhân của Áo Choàng trong trẻo, đường nét khuôn mặt cân đối quanh sống mũi cao. Ngay cả giữa trận chiến, khuôn mặt không hề tỏ ra hoảng loạn hay tức giận; trông nó bình thản như thể chủ nhân của nó đang làm mấy công việc hàng ngày.

Nhưng vẫn có điều gì đó đáng ngạc nhiên hơn ở người này. “…một phụ nữ?”

Phải. Một khuôn mặt nữ giới không thể phủ nhận. Trông cô khoảng chừng hai mươi tuổi.

Yukinari không phải là người duy nhất ngạc nhiên. Hai hiệp sĩ đứng hình, sốc khi phát hiện ra rằng người ngang cơ với ba người họ lại là nữ. Trong lúc họ đứng đó, đứng hình, Áo Choàng—người phụ nữ—rút ngắn khoảng cách với họ, chém nhanh hai nhát. Các hiệp sĩ đưa Durandall của họ lên chặn kịp thời—suýt soát—nhưng hẳn là họ hứng một đòn mạnh, bởi mấy khẩu súng văng khỏi tay họ và rơi xuống đất.

“Tại sao, ngươi!” Arlen nhảy về phía người phụ nữ từ sau lưng. Nhưng cô đạp vào một hiệp sĩ, lấy đà để quay mình lại đối mặt hắn.

Arlen khó hiểu trước tốc độ di chuyển của cô ta. Người phụ nữ quét kiếm lên, về phía hàm của hắn. Từ cằm lên não: cô ta định giết hắn trong một đòn.

Nhưng ngay trước khi biến Arlen thành món kebab thịt người, cô khựng lại.

Đó là bởi Yukinari đã xuất hiện với Durandall của mình.

Người phụ nữ ngay lập tức phá đòn vào Arlen, lấy lại thế trước Yukinari. Cô chém hai ba nhát, thử cậu. Cậu giật mình khi đòn tiếp theo tới, nặng hơn những đòn khác, chứa đầy sát khí. Cô ta nhắm vào bắp chân cậu. Người ta hiếm khi nghĩ đến việc thủ chân trong một trận chiến, và phần lớn động mạch chính thì chạy bên trong bắp chân, nên một vết thương vào đó có thể là chí mạng. Người phụ nữ này quả thực biết cách chiến đấu—cách để đối mặt với một người trên chiến trường và giết họ.

Trong khoảnh khắc, Yukinari thả Durandall với nỗ lực làm chệch hướng đòn đánh, nhưng đã quá muộn.

Thay vào đó… “Yuki!”

Một tiếng rống.

Là Dasa. Cô đã rút Ớt Đỏ ra và bắn. Không như các hiệp sĩ, cô quen dùng súng của mình, và khẩu lục của cô còn là để bắn tỉa. Nó vốn dĩ chuẩn xác hơn Durandall. Viên đạn trúng thanh kiếm của người phụ nữ và dứt nó ra khỏi tay cô ta.

“Hự?!” Người phụ nữ dùn tay trái để che tay phải, sốc ra mặt. Có lẽ cổ tay cô ta đã bị chấn thương bởi lực chấn động. “Cái tia sáng quái quỉ gì vậy?!”

Dường như cuối cùng cô ta cũng nhận ra súng có thể nguy hiểm tới mức nào. Nhưng điều đó, cũng chỉ kéo dài trong chốc lát. Với tốc độ kinh ngạc, người phụ nữ luôn tay trái vào áo choàng của mình. Hẳn là cô ta còn một vũ khí khác nữa trong đó. Trên chiến trường, kiếm có thể gãy hoặc bị bẻ cong; mang theo một vũ khí dự phòng khác cũng là điều dễ hiểu thôi.

Nhưng Yukinari đã dí lưỡi gươm của Durandall vào cổ cô ta. “Đủ rồi.”

“…Grừ…” Lần đầu tiên, người phụ nữ tỏ ra không vui. Cô chĩa ánh mắt thù địch về phía cậu. “Ngươi không phải là hiệp sĩ truyền giáo! Vậy tại sao ngươi lại cố ngăn ta?”

“Hiệp sĩ truyền giáo à? Hừm, giờ thì hiểu rồi.”

Hẳn là cô ta đã tấn công Arlen và những người khác vì cho rằng họ là một phần của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris. Còn trong tâm trí họ, có lẽ cô ta là—mà cậu sẽ để lần khác vậy.

“Dù sao thì,” Yukinari nói tiếp, “Tôi muốn nói chuyện với cô. Hạ vũ khí xuống đi.” “Ngươi muốn… gì cơ?” Người phụ nữ nhìn cậu, đôi mắt màu hổ phách đầy nghi hoặc.

Chẳng có kẻ thù bình thường nào lại yêu cầu nói chuyện sau một trận chiến nảy lửa như thế. “Chắc là ngươi sắp mệt rồi, phải không?”

Trông người phụ nữ rõ là đang thở hổn hển, như thể đang dùng vai để thở. Xét đến việc cô đã cầm cự ba hiệp sĩ truyền giáo được một lúc, thực sự cho thấy cô có nhiều sức chịu đựng hơn so với ấn tượng đầu tiên để lại. Nhưng cô khó lòng có thể tiếp tục mãi.

Và máu trên áo choàng cô ta. Nhìn gần mới thấy nó không phải do bắn vào, mà hẳn là của chính cô ta. Cả quần áo bên dưới áo choàng cũng có vài chỗ điểm máu.

Điều này chỉ càng khiến ngạc nhiên hơn khi cô một mình chống lại Arlen cùng các bạn của hắn.

Mà về việc đó, người phụ nữ này từ đâu đến mới được cơ chứ? Nếu cô ta đến từ thị trấn nào đó, vậy tức là cô ta đã một mình băng qua các khu vực đầy rẫy các á thần và ngoại thú, chưa kể các loài thú hoang nguy hiểm. Một sự táo bạo khác thường đối với một người phụ nữ.

“Mà cô là ai?” Yukinari hỏi, có chút bực bội trong giọng của cậu.

Cô ta lườm cậu một lúc lâu hơn, vẫn thở hổn hển. “Ta…là…”

Nhưng hẳn cô đã đến giới hạn của mình, bởi trước khi kịp nói tên cho cậu, cô bất tỉnh nhân sự và ngã ra nền đất.

Trong bóng tối, một cuộc chiến thép chạm thép điên cuồng đang diễn ra. Tia lửa bay tứ tán, nhưng ánh sáng chúng phát ra thì quá ít ỏi để đẩy lùi bóng tối bao trùm toàn bộ. Nơi này hoàn toàn lạc lối; không thể nói được ai đang ở chỗ nào.

“Yaaaaaaa!”

Tiếng hét vang lên qua cánh rừng. Là đồng minh hay kẻ địch?

Họ đã nhất trí là sẽ tẩu thoát lúc nửa đêm. Mọi người đều mặc đồ đen để không bị phát hiện. Một kính gác, vàng lấp lánh trong tay, lặng lẽ mở cổng sau cho họ—đó là cách họ ra ngoài. Bất kể có bị giám sát chặt chẽ tới mức nào, một lối thoát luôn có thể được tìm thấy nếu những kẻ giám sát bạn được hối lộ đầy đủ.

Nhưng tên lính gác này hóa ra còn tham nhũng hơn dự tính của nhóm. Ngay khi vừa lấy tiền của họ gã liền bí mật báo cáo chỉ huy của đài quan sát. Có lẽ gã ta chẳng nói gì về tiền hối lộ mình đã nhận, đóng vai một quan chức trung thành.

Tuy nhiên, họ ít thất vọng trước việc bị phản bội hơn là, sự thật rằng ngay từ đầu họ buộc phải hỏi nhờ một kẻ thất tín như vậy. Nếu họ có đủ sức mạnh, thì đã chẳng cần đến cái mưu đồ lố bịch này làm gì.

Cả nhóm ra khỏi thị trấn, và trong một lúc họ không gặp vấn đề gì cả. Họ men theo lề đường, tạo khoảng cách với ngôi làng. Khi xét rằng có lẽ đã an toàn, họ trở lại đường chính—và đụng ngay phải mai phục.

Giáo Hội Chân Chính Harris. Nắm đấm sắt của Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa—Lệnh Truyền Giáo. Một kẻ địch đáng sợ hơn bất kì thổ thần hay ngoại thú nào, có lẽ là thứ tệ nhất họ có thể gặp phải.

“Cầm cự đi! Chúng không đông đâu!”

Trong lúc cố khích lệ đồng đội, cô rút vũ khí của mình ra, một ngọn kích, và xung phong.

Chắc hẳn đám hiệp sĩ không thể nào đoán được chính xác nơi cô và đoàn hộ tống trở lại đường chính. Vậy tức là Lệnh không thể phái toàn bộ lực lượng đến bất kì cỗ mai phục tiềm năng nào, mà phải phân ra vài địa điểm có khả năng. Điều đáng lo ngại nhất là cuộc chiến có thể kéo dài, cho phép bạn của đám hiệp sĩ này đến tiếp viện.

“Mấy thằng hiệp sĩ non nớt ẻo lả này không quen đánh chui đánh nhủi đâu! Tình thế có lợi cho phe ta! Hãy mạnh mẽ và nhắm chuẩn! Cắt chúng ra thành từng mảnh!”

Một mặt, cô chỉ đơn thuần nói điều đầu tiên nảy ra trong đầu mình, hy vọng động viên được đồng đội. Mặt khác, cô nói đúng. Lệnh không sẵn sàng cho một trận chiến về đêm; chuyển động của chúng sẽ không chuẩn xác.

Tuy nhiên, người phụ nữ và những người đi cùng, lại luôn làm những công việc bẩn thỉu, và họ đã quen việc hành động trong bóng tối. Cho dù họ thường là bên đi mai phục, chứ không phải bị mai phục.

Cô chì vừa nghĩ rằng liệu họ có thể sống sót sau chuyện này. Nhưng rồi, ánh trăng lọt qua khe giữa những đám mây, và dưới ánh sáng lạnh lẽo, nhợt nhạt, đám hiệp sĩ reo hò. Chúng đang nhìn lại về thứ gì đó.

“Thánh đã tới! Thánh chiến đấu vì chúng ta!”

Giữa những tiếng hò, vang lên một âm thanh sắc lẻm, xuyên qua màn đêm. Nó không ngừng lan tỏa khắp mặt trận, dệt nên một giai điệu.

Và rồi, nhất loạt, các hiệp sĩ bắt đầu tụng. “Hâu, hâu, hâu!”

“Ô tổ tiên uy nghi! Ô vị thánh bảo vệ những giáo lí đáng kính!” “Hãy hóa thân vào gân thép, và xung trận!”

Thánh, chúng gọi thế, nhưng dưới ánh trăng dường như là một người khổng lồ, lờ mờ như thể làm cho bóng tối càng tối hơn.

Cả nhóm đang gặp rắc rối. Quân tiếp viện đã tới, đã thế lại còn ở dạng tệ nhất có thể.

“Quân, lùi lại!” ai đó gọi từ sau người khổng lồ—tượng thánh bảo hộ. “Bất cứ ai còn ở trước mặt thánh, dẫu bạn hay thù, đều sẽ bị tiêu diệt!”

Đó là thời khắc thế trận xoay chuyển. Các hiệp sĩ rút lui như rút thủy triều. Thế chỗ chúng, một dáng hình kim loại khổng lồ tiến bước. Chỉ nhìn sơ qua cũng đủ biết chẳng vũ khí con người bình thường nào có thể làm hại đến nó. Nó giống như một vị thần nhân tạo bằng kim loại.

Nó lại gần họ, bước chân rầm rập. Nó di chuyển một cách kì lạ; mỗi động tác đơn lẻ thì nhanh, nhưng không ăn khớp. Mỗi bước chân đều nhanh chóng, nhưng có một quãng dừng ngắn trước khi người khổng lồ bước lại. Khả năng cao, điều này là bởi Lệnh Truyền Giáo phải chỉ dẫn nó từng đường đi nước bước. Kết quả là rất khó để dự đoán bức tượng sẽ làm gì.

Và như vậy, khi cú đấm của nó tung ra xé gió whuýp, thuộc cấp của cô không thể phản ứng lại ngay. Cái thứ ấy mới một giây trước còn lề mà lề mề, mà giờ thì bạn cô đều bị kẹt trong một quả bóng thép di chuyển nhanh đến mức gần như để lại dư ảnh.

“Hự—!”

“Gya!”

Hai người khi đánh bay đi cùng tiếng ồn không giống hét, không giống kêu lắm. Họ biến mất vào bụi cỏ ven đường. Rất có thể, họ đã chết. Cô có thể thấy những góc cạnh không tự nhiên của tay chân và cổ họ ngay cả khi họ văng trong không trung. Trông như thể họ vừa bị tông bởi một khúc gỗ phá thành. Có khi trông đã ít chướng mắt hơn nếu họ không có tay chân gì cả.

“Chạy đi!” ai đó hét. “Chúng có lợi thế rồi!”

Điều này khiến cô bừng tỉnh. Đám truyền giáo đã lùi lại. Nếu có gì, điều đó mở ra một cơ hội để họ tẩu thoát. Bức tượng có thể lớn, và có thể mạnh, nhưng chỉ có một. Nếu chạy hết sức có thể, có khả năng là họ sẽ thoát được.

Cô và đám thuộc cấp bắt đầu chạy khỏi đám săn đuổi. Nhưng rồi— “Hâu, hâu, hâu!”

Lần này câu tụng đến từ đằng trước họ.

“Cái…?” Cô đứng hình. Một tượng thánh nữa, đến từ hướng còn lại, đổ bóng rõ rệt dưới ánh trăng. Mà thực ra, còn có một bức tượng thứ hai kế bên nó. Và rồi…

“Lửa?!”

Với một tiếng rống, lửa phun ra từ hông thánh. Ngọn lửa cuồng nộ soi sáng đôi chân vũ khí tối tượng của Lệnh Truyền Giáo, khiến nó trông khủng khiếp và đáng sợ hơn bao giờ hết. Người khổng lồ thép hẳn có dầu bên trong, để nó bắn được ra lửa. Có khi nó cũng có thể bắn ra dầu sôi.

Lại gần mấy bức tượng rõ ràng là chết người, và cứ thế này, họ sẽ sớm bị bao vây từ cả ba phía. Cô cho rằng quân tiếp viện sẽ giúp chặn đường thoát của họ.

“Hự…!”

Không hay rồi. Họ sẽ bị tiêu diệt hết mất. Lựa chọn duy nhất ở hiện tại là cố né những đòn của tượng, vòng ra sau một con tới chỗ đám truyền giáo chắc chắn là đang đợi ở đó, và mở đường máu. Câu hỏi đặt ra là áo choàng của cô có thể chịu lửa được bao lâu.

“Không.” Ai đó nắm lấy vai cô. Cô quay lại thấy một người đàn ông tóc bạc với chỉ một mắt đang lắc đầu. Ông là người cô tin tưởng nhất. Có thể ông đã qua thời thể chất sung mãn, nhưng vẫn còn kinh nghiệm thực chiến và sự khôn ngoan bằng cả đời người.

“Con phải chạy,” ông nói. “Con phải trốn thoát.”

Ý ông không phải cùng với mọi người khác. Ý ông là một mình. Ông đang bảo cô phải bỏ rơi những người còn lại.

“Nếu chú nghĩ con sẽ có ngày—”

Cô đã làm rất nhiều việc bẩn thỉu. Cô đã học cách để lấy từng chút lợi thế trong trận chiến. Nhưng điều đó không có nghĩa là—

“Không, con phải. Ta sẽ không cho phép con bỏ mạng ở đây đâu, Công Chúa!”

Ông nói đúng. Sự sống còn, đối với cô, là mệnh lệnh tối thượng. Mọi việc cô đã làm, là để cho điều này. Dù có bỏ chạy cô cũng không phải thấy xấu hổ.

Cô nhớ cái ngày đó sáu năm về trước. Cô đã chạy, bỏ rơi lâu đài, quốc gia, và cha của mình. Và cô cứ tiếp tục chay, bởi vì đó là điều ông bảo cô làm. Nhưng bao giờ cô mới có thể dừng lại đây? Khi chết ư? Phải chăng cô phải vứt bỏ tất cả đồng đội, ngó lơ cái chết của mọi người thân thiết, để mà chạy, mà sống sót, nhưng một mình?

Cô sẽ sớm— “Aaaaaaaaaaaaaa!”

Cô ngửa mặt hét lên như một con thú hoang. Sau đó, và chỉ sau đó, cô mới nhận ra rằng tất cả chỉ là một giấc mơ.

“Mình đang ở đâu…?”

Cô nhìn quanh, trông thấy căn phòng kì lạ. Nó nhỏ, chỉ có vài đồ đạc, nhưng sạch sẽ và ngăn nắp.

Đột nhiên, cô phát hiện cô gái cạnh bức tường. Trông cô ấy như đang ở tuổi thiếu niên, xét theo ngoại hình là một cô thôn nữ hoàn toàn bình thường. Cô ấy ngồi bệt xuống đất, trông ngạc nhiên. Một cái xô gỗ nhỏ gần đó, và nước, vốn ở trong xô, lại ở trên sàn.

Phải mất một lúc người phụ nữ mới ráp nối được các mảnh ghép lại với nhau. Cô gái kia hẳn đã giật mình trước tiếng gào.

“Và ngươi là ai…?”

Cô nghĩ có lẽ cô gái này ở đây để canh chừng mình, nhưng trông cô ấy yếu đuối, và không mang vũ khí. Có lẽ cô ấy chỉ đơn thuần là tới kiểm tra người phụ nữ.

“T—Tôi sẽ gọi Chúa Tể Yukinari.” Cô ấy không trả lời câu hỏi, mà vội vã lao ra khỏi phòng.

Người phụ nữ suy xét một hồi. Vô lí. Hẳn là cô đã ngất vì kiệt sức và mất máu sau trận chiến với đám hiệp sĩ truyền giáo. Tại sao chúng không trói cô lại? Tại sao cô không được lính gác vũ trang canh chừng? Đây là một cách cực kì mất cảnh giác để đối đãi với một người hoàn toàn xa lạ.

“Và chàng trai đó…” Chàng trai đã đối đầu với cô lúc cuối, với mái tóc trắng và đôi mắt đỏ. Hắn đã bảo là muốn nói chuyện. Giờ mới thấy, có vẻ là hắn không đơn thuần có ý định cố đánh lạc hướng cô, mà thực sự nghiêm túc. Cô đang được đối đãi không phải như một tù nhân, mà một vị khách.

“Yuki… Yukinari. Thì ra đó là tên hắn.” Cô nhíu mày. Nghe có vẻ rất lạ lẫm.

“Th-Thứ lỗi!” Cánh cửa phòng tiếp tân bật mở, và Berta bước vào.

“Berta? Gõ cửa đi chứ.” Fiona đang nói chuyện với Yukinari và những người khác, liền nhăn mặt.

“Hả? Ồ, em… em xin lỗi. Nhưng người phụ nữ… Cô ta dậy rồi…”

“Thế chắc nên qua chào một tiếng.” Yukinari đứng cười toe toét. Fiona thở dài, rồi đi theo cậu.

Berta có hơi quẫn trí dẫn họ tới căn phòng người phụ nữ ngủ. Cùng với Yukinari và Dasa, Dasa, Ulrike, và Arlen cũng đều ở đó.

“Ngươi còn chẳng biết gõ cửa sao?” Arlen nói với vẻ cao ngạo thường ngày. “Đúng là đồ con gái nhà quê có khác.”

“X-Xin lỗi…”

“Hy vọng là ngươi không nói chuyện với bọn ta kiểu đó,” Fiona càu nhàu. “Đâu phải Berta không biết. Chỉ là cô ấy vội và quên thôi. Mà để cho ngươi biết, ta và cô ấy bằng tuổi nhau đấy. Lần sau còn nói chuyện kiểu đó thì cứ xác định!”

“Cái? Đồ xấc xược— cậy có ‘thổ thần’ mà vênh váo hả!” “Ta không muốn nghe, đặc biệt ngươi lại càng không!”

Dasa thường được thấy ở bên cạnh Yukinari, cũng như Ulrike, bởi dường như nhỏ thích Yukinari ngay và khá hứng thú với thế giới xung quanh mình. Chỉ Arlen là có vẻ lạc loài. Hắn ở với họ một phần là vì đang tham gia vào cuộc thảo luận khi Berta xuất hiện, nhưng Arlen rõ là cũng có tò mò về người phụ nữ này. Hắn và hai người đồng đội đã không thể cản cô ta; mà thực ra, cô ta gần như áp đảo họ, một điều có lẽ không làm hắn vui vẻ mấy. Arlen đã được huấn luyện võ thuật, nhưng người phụ nữ rõ ràng đã chiếm thế thượng phong.

Có lẽ hắn hy vọng giảm bớt được sự thất vọng của mình khi thấy cô ta bị giam giữ. Dù nói vậy, cô ta chỉ đơn giản là được cho một phòng khách để ngủ; họ còn chẳng bỏ tù hay trói cô bằng xích.

Dường như cô ta đã ngất đi vì kiệt sức… Và mình thì không muốn cử một mớ người để mắt tới cô ấy.

Yukinari nhìn Dasa, bên trái cậu, rồi Ulrike, bên phải cậu. Cả hai cô gái đều nhìn cậu thắc mắc.

“Yuki…?” “Sao vậy?”

“Không có gì,” cậu mỉm cười nói. Cậu đã có thể bảo họ chờ ở phòng tiếp tân, nhưng cậu nghi sẽ chẳng có đứa nào chịu nghe lời.

Fiona gõ cánh cửa, đang để mở. “Dậy rồi à?”

Người phụ nữ ngồi trên giường, trông hơi phân tâm. Yukinari, tuy nhiên, lại cảm thấy có điều không ổn. Có vẻ cô ta chỉ đang ngồi, nhưng toát ra một sự chú ý hữu hình. Nhìn kĩ người phụ nữ hơn, Yukinari nhận ra điều có vẻ không đúng.

Chân cô ta…

Chân cô ta đặt vững chãi trên nền đất. Nhưng gót không đơn giản là đặt xuống sàn; chúng ấn xuống một cách chủ động. Do đó, người phụ nữ dường như không dồn toàn bộ trọng lượng ở trên giường. Nói cách khác, cô sẵn sàng đứng dậy bất cứ lúc nào—sẵn sàng để nhảy bổ vào kẻ thù mọi lúc. Cô ta đang cố tỏ ra lơi là, nhưng nếu có cơ hội, cô sẽ chớp lấy nó.

Tự nhiên thấy giống mèo hoang ghê, Yukinari nghĩ.

Chính ngay lúc đó, Arlen bước lên phía trước. “Ngươi nên cảm thấy biết ơn khi bọn ta tha cho cái mạng vô dụng của ngươi. Bọn ta còn chẳng thèm cắt chân tay—”

“Ồ, cứ lờ tên bại não này đi nhé.”

“Hả—?!” Mặt Arlen tái nhợt trước lời nhận xét của Fiona.

Yukinari nở một nụ cười gượng gạo trước khung cảnh và nói, “Đừng lo. Chúng tôi không định làm hại cô đâu.”

Người phụ nữ không nói, mà nheo mắt lườm Yukinari. Cô ta rõ là đang quan sát cậu cẩn thận. Cô biết chính sự can thiệp của Yukinari đã dẫn tới việc mình bị bắt giữ. Cô biết nó có liên quan đến vũ khí của cậu và Dasa, nhưng vì không rõ súng là gì, cô khó lòng có thể hình dung được chi tiết.

Một lúc lâu sau, cô ta nhìn Arlen và khạc miếng, “Hắn là hiệp sĩ truyền giáo, phải không?” “Hửm? Đúng, ta thuộc về vinh quang—”

“Coi nào,” Fiona nói, véo tai Arlen. “Im đi, được chứ? Ngươi càng nói thì càng rách việc ra đấy.”

Yukinari nhìn phía Arlen thấy hắn bị lôi đi đang la hét, “Ê, đ au đấy, dừng lại!” Rồi cậu lại quay về người phụ nữ và nói, “Cô nói đúng. Hắn là hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris.” Cậu nhìn cô bằng ánh mắt sắc. “Thì sao nào?”

“Giáo Hội đang truy đuổi tôi. Nếu như tôi bị bắt bởi bè lẽ của đám truyền giáo, thì anh khó mà mong đợi tôi ‘đừng lo’ được.”

“Aa. Bắt đầu hợp lí rồi đấy.”

Theo lời Arlen, người phụ nữ đã đột ngột tấn công hắn và những người khác ngay khi vừa xuất hiện. Giờ thì Yukinari đã hiểu tại sao. Nếu cô ta đang chạy trốn khỏi Giáo Hội, có thể cô ta đã nhầm Arlen và các hiệp sĩ là những kẻ đuổi theo mình. Yukinari khó mà không hiểu được; cậu biết chạy khỏi Giáo Hội Harris là như thế nào.

“Tôi hiện không có cách nào để chứng minh, nhưng tên đó không phải hiệp sĩ truyền giáo theo cô nghĩ đâu. Tôi không biết tình hình giữa cô và Giáo Hội thế nào, nhưng nếu cô không tấn công hắn, hắn sẽ không hại cô gì cả. Nói chung là, trong tầm để mắt của tôi.”

“Mẹ kiếp nhà ngươi, Yukinari Amano, sao ngươi dám—” “Oi, im mồm giùm cái!”

“Ou! Ou! Tóc ta! Bỏ tóc ta ra!” Fiona túm chặt lấy cái chỏm tóc vàng của Arlen.

Người phụ nữ quan sát họ một lát, rồi khẽ thở ra. Sự căng thẳng khắp thân thể cô giãn ra một chút. Có lẽ cô không tin họ hoàn toàn, nhưng thế này có vẻ là cô sẵn sàng nói chuyện.

“Cô nói mình đang bị truy đuổi,” Yukinari nói. “Tại sao?”

“Tôi là một lính đánh thuê,” cô nói. “Tôi sẽ làm bất cứ điều gì, và tôi không kén chọn người thuê mình. Cho dù đó có là, chẳng hạn, một thương gia tiến hành giao dịch trái phép.”

“Ra vậy.”

Vậy ra người phụ nữ này từng là hộ vệ cho một người tiến hành giao dịch mà không có ủy quyền của thủ đô—tức là họ đang trốn thuế.

Nói chung, một loại thuế được đòi hỏi để sử dụng các con đường chính. Một khoản thuế bổ sung có thể được áp dụng tùy thuộc vào hàng hóa được vận chuyển. Các ủy viên của mỗi khu vực cũng có thể muốn được chi trả. Kết quả là những hàng hóa trong diện giao dịch hợp pháp có thể được bán gấp lên nhiều lần giá gốc của chúng.

Còn một tổ chức nữa cũng muốn được “đóng thuế,”: Giáo Hội Harris. Giáo hội không có quyền lực hợp pháp để đánh thuế ai cả, nên tiền mà thương gia trả được coi là một khoản quyên góp tình nguyện—nhưng thực tế, không hề tình nguyện chút nào cả.

Tất cả những điều này dẫn đến, một vài thương gia bắt đầu tiến hành giao dịch chui, không để cho thủ đô biết. Dĩ nhiên, điều này tức là rời bỏ những con đường chính tương đối an toàn sang đường núi, và vậy tức khả năng bị tấn công bởi ngoại thú và á thần. Đạo tặc cũng không phải là không có. Để chống lại các mối đe dọa như vậy và giữ cho hàng hóa của mình an toàn, những thương gia trái phép này đã mướn lính đánh thuê.

“Công việc là hộ tống một số hàng hóa đến Aldreil, cơ mà…” “Kẻ nào đó ở Giáo Hội Harris đã phát hiện ra bọn cô à?”

“Đại loại thế. Tôi không rõ, cả người thuê tôi cũng thế,” người phụ nữ khạc miếng. “Không rõ gì cơ?”

“Rằng một đơn vị truyền giáo đã đóng đồn tại Aldreil.” Yukinari liếc qua vai về phía Fiona và Arlen.

“Aldreil gần thủ đô hơn Friedland, ven một ngã ba trên đường,” Fiona nói.

“Bọn ta đã đi qua đó trên đường tới đây,” Arlen nói, tóc vẫn bị Fiona nắm.

“Vậy tức là kiểu một căn cứ chuyển tiếp để các đơn vị truyền giáo hướng ra biên giới à?” Yukinari hỏi.

“Nó là một thành phố khá lớn,” Fiona nói, “Nên chính thức hay không, nó luôn là một nơi diễn ra rất nhiều giao dịch giữa các khu vực hẻo lánh. Đó có lẽ là lí do tại sao Giáo Hội muốn nó là một căn cứ cho Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa.”

Yukinari lặng lẽ thêm thị trấn vào bản đồ khu vực trong đầu. Cậu còn nhớ một thị trấn lớn nơi cậu và Dasa từng trữ đồ tiếp tế trong lúc chạy khỏi thủ đô, trước khi đến Friedland. Con đường chính chạy thẳng qua trung tâm thị trấn, và cậu còn nhớ nó đầy xe ngựa và xe thồ lớn nhỏ. Hẳn đó là Aldreil.

“Lệnh Truyền Giáo là một tổ chức có trọng trách mang ánh sáng sự thật đến với đám mọi rợ vô học ở vùng biên giới. Đoàn Viễn Chinh Khai hóa thường xuyên được phái đi để giúp truyền bá.” Arlen nghe có vẻ hài lòng một cách kì quặc.

“Cảm ơn, Arlen,” Fiona nói. “Vì đã nói điều mà ai cũng biết.”

“Lắng nghe đi chứ! Kiên nhẫn một tí thì chết à!” Arlen hét lên trước sự xen vào của Fiona. “Mà, đến đâu rồi nhỉ? Ồ, phải rồi. Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa. Việc gửi từng bộ phận riêng lẻ trực tiếp từ thủ đô đến các thị trấn và làng mạc xa xôi gây ra sự lãng phí rất lớn về tài nguyên và nhân lực.”

“Cũng có lí.” Yukinari gật đầu. Ngay cả việc có đủ thực phẩm cho một đơn vị duy nhất cũng tương đương với một lượng hàng chuyên chở đáng kể. Thêm vào đó là những thứ thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày. Mang hết tất cả đến tận biên giới thì sẽ không hiệu quả cho lắm. Nhận hàng từ địa điểm sẽ là một giải pháp tốt hơn nhiều.

Ở thế giới trước của Yukinari, đã từng có những “đoàn viễn chinh khai hóa” ở thời Trung Cổ, việc nhận tài nguyên tại điểm đến là điển hình. Đó là cách mọi thứ hoạt động trước khi viễn thông, hoặc ngay cả những ý tưởng luân lí tương tự, được phát triển nhiều.

“Thế,” Yukinari nói. “Thay vào đó các ngươi phái một vài đơn vị cùng lúc để thiết lập một căn cứ cung cấp tài nguyên và thực phẩm.”

Theo quan điểm đó, việc một thị trấn giao thương nổ ra là hợp lí. Một lượng lớn hàng hóa đa dạng sẽ luân chuyển qua nó, và tất cả những lữ khách đồng nghĩa với cơ sở vật chất có khả năng đáp ứng số lượng lớn ngựa và nhân lực thì luôn sẵn sàng. Nói cách khác, quân đồn trú ở đó không chỉ đơn giản là chuyển giao nhân lực. Nó là bàn đạp để Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa tiến tới cả biên giới.

“Yuki…” Dasa nói với cái cau mày mờ nhạt nhất.

Hẳn cô nàng cũng đã liên kết được. Điều này tức là có một căn cứ chủ chốt với nhiều đơn vị truyền giáo trong một thị trấn không xa Friedland, và số lượng của chúng có xu hướng gia tăng. Yukinari đã có thể đánh bại Arlen cùng những hiệp sĩ khác và thậm chí còn hủy diệt vũ khí tối thượng của họ, tượng thánh bảo hộ. Nhưng nhỡ gấp hai hoặc thậm chí ba lần lượng quân lính xuất hiện thì sao? Chẳng có gì đảm bảo cậu sẽ thắng nổi. Đối phương đơn giản là gấp hai ba lần mạnh hơn. Số lượng của chúng sẽ tăng, tức là sẽ có khả năng tiếp cận với nhiều chiến thuật hơn trong thực chiến. Như vậy sẽ khiến chúng nguy hiểm hơn gấp bốn lần, hoặc thậm là chín.

Một lát sau Yukinari hỏi, “Cô có biết kích cỡ của đồn trú không? Chúng có bao nhiêu đơn vị ở đó?”

“Ba trung đoàn tách biệt,” người lính đánh thuê đáp.

“Y như hồi bọn ta đi qua,” Arlen nói, khoanh tay và gật đầu. “Xét đến diện tích của thị trấn, có lẽ họ không thể thêm được nữa đâu.”

Càng có thêm nhiều người tại một địa điểm, thì dĩ nhiên, càng đòi hỏi thêm nhiều tài nguyên. Bởi lẽ các hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo khó lòng mơ tưởng đến việc chăn nuôi hay làm ruộng, điều đó tức là số lượng của chúng sẽ bị giới hạn bởi khả năng cung cấp thực phẩm của khu vực hiện thời. Theo lẽ đó, nếu chúng thống trị thị trấn triệt để đến mức giao thương không thể tiếp tục, thương nhiệp vốn làm cho Aldreil thịnh vượng có lẽ sẽ không thể duy trì. Ba trung đoàn hẳn là lượng nhiều nhất địa điểm có thể hỗ trợ.

Nhưng đối với Yukinari và những người đồng đội, ba trung đoàn thì còn hơn cả đe dọa.

“Ta không phiền tiết lộ,” Arlen khịt mũi thêm vào. “Rằng lúc ta tới đó, mọi á thần và ngoại thú trong khu vực đã bị tiêu diệt.”

Có lẽ hắn ta có ý khoe khoang, nhưng với Yukinari đó lại là thông tin đáng lo ngại. Tất nhiên bất kì đơn vị truyền giáo nào cũng sẽ quật ngã thổ thần tại địa điểm mà họ được giao phó, nhưng nếu những người ở Aldreil đã loại bỏ cả á thần và ngoại thú, điều đó tức là các hiệp sĩ ở đó không phải dành ra nhiều nhân lực để giữ cho thị trấn an toàn. Chúng có thể đi đây đi đó lúc rảnh rỗi.

Tất cả những điều này đồng nghĩa với việc Aldreil hoàn toàn được thành lập như một căn cứ. Nếu những hiệp sĩ ấy biết được chuyện đang xảy ra ở Friedland…

“Thì có tin xấu rồi đây,” Yukinari vô vọng lẩm bẩm.

Đơn vị của Arlen đã báo cáo với chính quyền trung ương Giáo Hội rằng họ đã đánh bại thổ thần của Friedland, thành lập một đồn trú ở đó, và hiện đang tiến hành cải đạo quần chúng. Dĩ nhiên, là xạo thôi. Nhưng đám truyền giáo và thổ thần thì thường không ưa gì nhau, nên khi Giáo Hội nhận báo cáo này, chúng cho nó là sự thật. Nhỡ mà biết không phải thì…

“Ulrike.”

“Vâng?” nhỏ đáp, trông hài lòng khi được tham gia vào cuộc trò chuyện.

“Nếu Giáo Hội Harris phát hiện ra chuyện đang diễn ra ở Friedland, thì kế tiếp sẽ là Rostruch. Và có lẽ ngược lại cũng vậy. Đám người truyền giáo ở Aldreil sớm thôi sẽ phải tìm một mục tiêu mới, và có khi là thị trấn của nhóc. Nhóc có thể bảo mọi người biết để đề phòng được không?”

“Tuân ý.” Ulrike gật đầu với nụ cười ngây thơ trên khuôn mặt, không rõ nhóc có thực sự hiểu ý cậu là gì không.

Họ muốn tránh làm bất cứ điều gì có thể thu hút đám truyền giáo, nhưng vẫn cần phải sẵn sàng—ở thế chuẩn bị.

Đột nhiên Berta lên tiếng, giọng ngập ngừng. “Um, Chúa Tể Yukinari… Có lẽ hôm nay chúng ta nên… Ý em là, vị khách của chúng ta có lẽ còn mệt… Chúng ta không nên giữ cô ấy lâu quá.”

“Ừm, em nói đúng.”

Họ thể để mắt tới người lính đánh thuê một lát. Hiện tại thì, cậu không phát hiện ra điều gì khả nghi trong câu truyện của cô ta. Và mặc dù giờ đã tỉnh, sắc mặt cô ta vẫn còn xanh xao và rõ là chưa hồi phục hẳn. Nếu Yukinari muốn một cuộc đối thoại lâu hơn, tốt nhất là để đến lúc sau khi cô ta nghỉ ngơi và họ có được sự tin tưởng của cô ta hơn một chút.

“Tôi cô chẳng cô chẳng có gì để làm điểm tựa trừ lời nói của tôi,” Yukinari nói, lại nhìn về phía người lính đánh thuê. “Nhưng nhắc lại, chúng tôi không định làm hại cô. Tình thế đã đẩy chúng tôi đến việc chung sống cùng đám người truyền giáo, song chính bản thân tôi chẳng phải bạn bè gì với Giáo Hội Harris hết.”

“Thế à?” sau một hồi người lính đánh thuê hỏi, nheo mắt nhìn cậu. “Yukinari—là tên ngươi, phải không? Ngươi là ai hay cái gì?” “Tôi là thổ thần quanh đây,” Yukinari nhún vai nói. “Thần? Nhưng mà—”

“Chúng ta có thể đi vào chi tiết khi cô cảm thấy khỏe hơn chút. Kể chuyện cũng mất một lúc mà. Dù sao thì, tên cô là gì? Tôi không thích cứ gọi cô là ‘cô’ mãi. Và cô thì biết tên tôi rồi.”

Trong một lúc lâu, người phụ nữ nhìn xuống đất, mặt nhăn nhó lặng lẽ trong suy tưởng. Dường như cô quyết định rằng lúc này nói tên cho mấy người này biết cũng chẳng thiệt gì, bởi cô gật đầu và ngước nhìn Yukinari.

“Là Veronika.”

Cô chỉ nói có thế. Dường như cô không định nói cho họ biết họ của mình. Nhưng giờ thế là đủ. Yukinari lại gật đầu, và rồi cậu kéo mọi người ra khỏi phòng.

Các vùng hẻo lánh, xa thủ đô, thật bất tiện.

Sự định cư của con người rải rác trên vùng đất, chỉ được nối với nhau bằng những con đường. Trải qua nhiều thế hệ, nhà vua và các quý tộc ở thủ đô đã ít tỏ ra quan tâm đến các phần xa xôi hơn của vương quốc, thậm chí còn chẳng nghiêm túc nỗ lực mở rộng lãnh thổ. Miễn là còn có thuế, thì họ chỉ quan tâm có vậy. Trong nhiều trường hợp, các nhà cầm quyền địa phương đơn giản là thích làm gì thì làm.

Thông thường, những khu vực biên cương này vẫn còn bị thống trị bởi quái vật như á thần và ngoại thú; ngay cả trên những con đường chính, an toàn không được đảm bảo. Điều này khiến cho giao thương và liên lạc khó có thể phát triển và, cộng với các giáo phái thổ thần như một đặc điểm thường thấy của những khu vực này, sự cô lập khỏi thủ đô chỉ càng sâu sắc hơn.

Kết quả là nhiều những nơi như vậy chỉ là những thành phố trên danh nghĩa; còn thực tế, chúng có thể là những thị trấn ma.

Rồi lại nói, đôi lúc hoàn cảnh hợp lí, người và tài nguyên tụ hợp lại vào một thị trấn cụ thể, và một biên pháp phát triển sẽ diễn ra. Aldreil, trong khi rõ ràng là chẳng giống thủ đô tí nào, lại là một thành phố phát đạt theo tiêu chuẩn biên giới. Nó đã phát triển thịnh vượng như một trung tâm thương mại, thu hút người và hàng hóa từ khắp mọi nơi trong khu vực xung quanh.

“Chà, chà. Không tệ.” Angela thị sát thị trấn từ một bục cao.

Cô vẫn còn là một thiếu nữ, chưa hai mươi, nhưng nhiều thứ khiến cô trông già dặn hơn tuổi—đôi mắt mạnh mẽ san sát, chiều cao, mái tóc đen dài, phong thái đĩnh đạc, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, bộ ngực nảy nở. Bất cứ ai nhìn qua cũng có thể nói rằng cô xuất thân từ tầng lớp bề trên của thủ đô. Chỉ đứng thôi mà cô cũng toát ra một vẻ quyến rũ chắc nịch.

Nhiều người trong giới quý tộc gia nhập Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris cơ bản là để củng cố danh tiếng của mình. Đã nhiều thế hệ trôi qua kể từ khi cuộc chiến tranh thống nhất kết thúc, và không còn kẻ thù để chiến đấu nữa, vai trò của quân đội trở thành phần lớn là nghi thức. Ngày nay những người lính duy nhất có được kinh nghiệm thực chiến là những người ở Lệnh Truyền Giáo.

Angela Jindel đã gia nhập các nhà truyền giáo chính xác vì lí do như vậy. Nhưng không giống đa phần phụ nữ trong Lệnh, vừa phục vụ đủ lâu để giữ danh tiếng một cái là bỏ liền, Angela đã chọn ở lại làm hiệp sĩ. Cô là một môn đệ nhiệt thành—cô vô cùng biết ơn những lời dạy của Giáo Hội Harris và say mê truyền bá chúng cho những người bần nông đáng thương đã mòn mỏi trong sự thiếu hiểu biết.

Hiện cô ở Aldreil cùng Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa trở lại. Thị trấn, đóng vai trò như một căn cứ của Đoàn Viễn Chinh, có một sự mộc mạc không thể nhầm lẫn, song đồng thời là chốn tuyệt vời để các nhà truyền giáo náu mình và nghỉ ngơi sau những chuyến đi đường dài. Dòng hàng hóa từ các khu vực khác của biên giới đồng nghĩa với việc—mà lại nói, sự chọn lựa chẳng hề giống thủ đô chút nào—hầu hết mọi thứ một người có thể cần đều có thể được tìm thấy trong thành phố. Dẫu là thức ăn hay nhu yếu phẩm hàng ngày, sống ở Aldreil là chẳng phải lo gì hết.

Đơn vị của Angela, Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín, sắp sửa tiếp tục đi xa hơn từ thủ đô để giải tỏa một đơn vị khác. Chừng một tháng cho đến khi chuyển đổi. họ sẽ ở lại đây.

Angela thích Aldreil, ít nhiều, nên cô được giao cho nhiệm vụ canh gác, điều mà cô thực hiện với sự nhiệt tình không kém bất kì công việc nào. Nhiệm vụ chính của Lệnh Truyền Giáo là lan truyền những giáo lí của Giáo Hội Harris tới những nơi còn chưa biết, nhưng đồng thời cũng chịu trách nhiệm giữ hòa bình cho các khu vực đã được cải đạo. Họ tuần tra thị trấn, thẩm vấn—hay đúng hơn là, lấy thông tin từ—người dân thị trấn để chắc không có gì xấu đang xảy ra và không có kẻ phản bội bất tín nào có nguy cơ phản lại những giáo lí quý giá của Giáo Hội.

“Đi chứ?” Angela nói với đám hiệp sĩ đi cùng mình. Cô leo xuống bục quan sát và bắt đầu đi tuân.

Nhiều người đứng tại chỗ, mắt hướng xuống, khi thấy nhóm của Angela. Họ biết bất kì hành động đáng ngờ nào đều có thể mang lại sự trừng phạt từ các nhà truyền giáo, nên họ cố hết sức để không thu hút sự chú ý về phía mình. Mỗi người họ đều đeo vòng được biết đến là thánh dấu quanh cổ mình, nên không một ai dám đối đầu với các nhà truyền giáo một cách công khai.

“Xuất sắc.” Angela lẩm bẩm trong lúc dạo bước cùng các hiệp sĩ. “Tuyệt đối xuất sắc.”

Tuy nhiên, họ giật mình khi thấy một người đàn ông trung niên đứng giữa đường, bên cạnh là vài hiệp sĩ truyền giáo.

“Chỉ huy!” Họ chạy từ từ tới chỗ người đàn ông, rồi đồng loạt cúi đầu chào. Ấy là một cử chỉ tự nhiên thể hiện sự tôn trọng với sĩ quan chỉ huy của họ— Richard Bateson, chỉ huy của Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín.

Bateson là một người đàn ông tráng kiện ở vào độ tuổi tứ tuần. Đôi mắt nhỏ của lão mang lại cảm tưởng như bị chìm vào khuôn mặt vuông. Dù xuất thân từ dòng dõi quý tộc, như Angela, đường nét của lão lại trông giống mấy người lội ruộng. Lí lịch của lão không bao gồm chiến tích quân sự đáng chú ý nào, nhưng cách mà lão làm việc không mệt mỏi suốt các thứ bậc đã giành được sự tin tưởng của đám thuộc cấp.

“Phó Chỉ Huy. Có gì báo cáo không?”

Angela đứng thẳng lưng hơn nữa, cẩn thận giữ thế trong lúc trả lời, “Dạ! Không có gì bất thường, thưa ngài.”

“Phân phối thánh dấu đến đâu rồi?”

“Hiện tại, gần như toàn bộ cư dân của thành phố đã được ban cho thánh dấu.”

“Gần như?” Một nét phật ý trong giọng Bateson.

Angela nhanh chóng thêm vào, “Còn một số ít cư dân hiện không rõ nơi ở—”

“Thế thì sao?”

“Chúng tôi ngờ rằng chúng có thể là những kẻ man rợ, vẫn còn tôn sùng thổ thần.”

Những nhà truyền giáo quật ngã thổ thần là các thành viên của Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Ba, đã ở đây trước đơn vị của Angela. Họ vốn đã rời Aldreil tới những điểm hẻo lánh hơn, nhưng có lẽ đối với người trong thành phố mọi nhà truyền giáo ai cũng như ai cả. Những tín đồ sùng đạo nhất của giáo phái cũ thậm chí có thể không hiểu rằng họ đã được giải thoát khỏi sự khuất phục trước một đức tin xấu xa; có lẽ họ cảm thấy mình đang mang đến công lí cho những vị thần đã ngã xuống của họ.

“Bất luận thế nào,” Angela nói tiếp. “Tình hình tại thành phố này là ổn định. Chúng ta không thiếu những môn đồ háo hức của Giáo Hội Harris, và không có bất hòa nào giữa quần thể cư dân.”

Ngay khi Lữ Đoàn Thứ Ba đánh bại thổ thần, một dòng đơn vị truyền giáo ổn định đã tới đây từ thủ đô, chính là ba đơn vị thường trực đồn trú trong thành phố. Đa phần dân chúng đã từ bỏ mọi ý nghĩ kháng cự.

“Ồ, Chỉ huy, xin chào!”

Một vài cư dân thị trấn lại gần khi thấy Bateson. Nhiều người thì giữ khoảng cách, e sợ các hiệp sĩ truyền giáo, nhưng một số ít thì sẽ tiếp cận với nụ cười trên khuôn mặt. Thị trấn nào cũng có vài người như vậy. Chúng tự cho mình là đủ thông minh để biết chớp lấy cơ hội khi nó xuất hiện. Nhưng quả thực, chúng chỉ đang bợ đít những ai nắm quyền lực. Trong khi đó cái cách mà chúng ngoảnh mặt với những người yếu thế hơn mình—và còn hành động như kiểu đang giữ thế bình quân—thì thực sự là xấu xí.

Đây là những kẻ vốn đã chủ động hợp tác với phe truyền giáo kể từ khi họ tới. Giờ thì chúng tự cho mình thành người giám sát thị trấn, cư xử như thể ngang bằng với các nhà truyền giáo. Đối với chúng Angela chẳng có gì ngoại sự khinh bỉ.

Mục tiêu của Lệnh Truyền Giáo, đúng như tên gọi của nó, là cải giáo dân chúng. Nhưng kẻ đã không kháng cự, mà thậm chí còn đứng ra giúp họ thì rất chi là hữu ích—thậm chí người ta có thể nói rằng cô nên hiểu cho tình cảm của chúng. Nhưng Angela, người rất coi trọng tín ngưỡng của mình, cảm thấy rằng bất cứ kẻ nào bán đứng đức tin của mình mà chẳng thèm suy xét thì chỉ đáng bị dẫm đạp. Có một mùi hôi thối đặc biệt, cô nghĩ, bốc ra từ những kẻ lợi dụng sự hỗn loạn của việc cải đổi để chơi trò trả thù cá nhân hoặc nâng cao địa vị của chính mình.

“Thưa ngài, nếu ngài có lòng tốt…” Một gã đàn ông chắp tay lại và ngước nhìn Bateson vẻ cầu khẩn. Chẳng nghi ngờ gì gã sẽ lại đưa ra một kiến nghị khó chịu khác. Cô đồng cảm với Bateson, người đang bị kẹt với cái mớ bòng bong này, song vì vị chỉ huy có vẻ sẵn lòng lắng nghe gã kia, Angela khó lòng mà xen vào hay đuổi gã ta đi được.

Bateson tiếp tục lắng nghe gã đàn ông, nét mặt không đổi như thể được chạm khắc từ đá. Đa phần các hiệp sĩ khác, như Angela, dường như đều thấy gã đàn ông và yêu cầu của gã chán ngắt, bởi họ nhìn ngẩn ngơ đi chỗ khác.

Có lẽ đó là lí do tại sao họ phản ứng chậm.

Từ phía sau gã người thị trấn đang lắp bắp, một gã khác tiếp cận Bateson. Angela thấy gã đang thò tay vào túi, nhưng không cho là nguy hiểm. Cô đã thấy nhiều người đưa tin rút ra những tấm da cừu có tin của người mà họ muốn giao nộp. Đây có lẽ cũng tương tự.

Cô đã không thể tưởng gã sẽ rút một con dao găm ra khỏi túi. Cũng như việc lao vào Bateson cùng với nó.

“Ya!” “Chỉ huy!”

Nhưng Bateson chẳng phải tay mơ. Có lẽ lão đã cảm nhận được sát ý của gã nọ. Bất luận thế nào, lão giơ bàn tay to vạm vỡ của mình và hất con dao ra trước khi nó chạm được vào họng lão.

Giá mà cú hất đã làm văng được vũ khí ra đất. Nhưng kẻ tấn công lại giữ được, đâm tới tấp mà chẳng màng đến chuyện vết thương có chí mạng hay không, và con dao ngập sâu vào ngực Bateson.

“Hự…”

Bateson rên thành tiếng, nhưng như một minh chứng cho sức mạnh của mình, không khuỵu gối. Mà thực ra, bằng tay phải, lão nắm lấy chuôi vũ khí, cùng với bàn tay của gã đang cầm nó. Gã nọ cố nhảy lùi lại, nhưng Bateson nắm tay gã như muốn nghiền nát, và gã chẳng thoát nổi.

“Có thích khách! Chế ngự hắn!” Tiếng hét của Angela khiến đám người truyền giáo hộc tốc hành động.

Họ dễ dàng bắt giữ được gã đàn ông. Nhìn kĩ hơn, trông gã ta thật rách rưới; bất kì thành viên nào của Lệnh Truyền Giáo cũng có thể dễ dàng áp đảo gã. Điều đó lại càng khiến họ tức giận hơn trước việc để gã nọ lọt qua hàng phòng thủ của mình.

“Ai đó hộ tống chỉ huy tới bệnh xá!” Angela ra lệnh, vẫn không hề rời mắt khỏi gã thích khách.

Quần áo gã tơi tả. Có lẽ gã vốn đang cắm trại ngoài trời để tránh các đợt hiệp sĩ, bởi trang phục của gã bụi bặm và bẩn thỉu, còn râu thì xồm xoàm.

“Đây là lời báo ứng của thổ thần! Ta là bàn tay của công lí! Các ngươi đã sáng mắt ra chưa—”

Những người trấn giữ không cho gã nói hết, mà đập mạnh thành tiếng vào lưng gã. Gã ta bị nện thẳng xuống, rên rỉ với khuôn mặt dinh đầy bùn đất.

Vậy ra gã là một người ủng hộ vị thần cũ.

“Tốt thôi,” Angela lạnh lùng nói, nhìn xuống gã nọ. “Nếu đã quan tâm đến công lí đến vậy, thì chắc ngươi chẳng bận tâm một phiên tòa công tâm đâu.” Cô đang nói với nhóm người xúm xít lại khi người ta bắt đầu để ý đến vụ lộn xộn thì đúng hơn là với gã nọ. Cô phải gửi một thông điệp tới những thể loại nhà quê ngu muội này, bằng không sẽ có thêm nhiều vụ công kích.

“Nhà ngươi đã cố sát hại Richard Bateson, chỉ huy của Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín đầy xuất chúng. Cố ý sát hại một thánh hiệp sĩ. Điều đó tương đương với việc phản bội lại vị Thần của chúng ta! Ta kết án tử hình!”

Lời này làm dấy lên những tiếng xì xào trong đám người xem. Quyết định đơn phương của cô đã khiến họ sợ hãi.

“T-Thế này mà là công tâm sao?” gã nọ thở hổn hển, mặt vẫn cắm xuống đất.

Angela cười nhạt. “Đừng lo. Còn có cả người biện hộ cho cơ mà—đây nè.” Cô quay sang một hiệp sĩ truyền giáo bên cạnh. “Ngươi là bạn của hắn, bắt đầu từ bây giờ. Nhà ngươi có phản đối gì với phán quyết không?”

“Dạ! Không, thưa cô!”

“Thế ngươi thì sao?” cô hỏi một hiệp sĩ khác. “Ngươi là bạn của hắn mà, phải không?”

“Không phản đối, thưa cô!” Các hiệp sĩ còn chẳng nhìn cái gã dưới đất.

Gã nọ gắng ngước đầu lên, hét, “Đ-Điều này thật quá quắt! Đây không phải phiên tòa!” Song Angela chẳng hề đoái hoài tới gã.

“Tên kia. Dừng ngay tại chỗ.” Cô chỉ các hiệp sĩ của mình bắt giữ gã đàn ông đầu tiên nói chuyện với Bateson. Ngay lúc tên thích khách bị áp chế, gã đã bắt đầu lẳng lặng lủi mất, vẫn còn cười được, nhưng giờ thì…

“Các ngươi là tòng phạm.”

“Hả? N-Nhưng tại sao—” gã phản đối, trợn mắt.

“Ngươi là kẻ đã nói chuyện với chỉ huy,” Angela lạnh lùng nói. “Ngươi đã tạo tiền đề để tên này tấn công. Tội của ngươi ngang với hắn.”

“Ngươi—ngươi làm gì có bằng chứng…”

“Ngươi đã trao đổi ánh nhìn với tên cặn bã này. Chính mắt ta thấy.”

Những tiếng Ừm và Tôi cũng thấy vang lên từ đám hiệp sĩ đứng tụm lại. Bởi lẽ chỉ huy đã đi chữa trị y tế, điều đó khiến cho phó chỉ huy, Angela, có thẩm quyền tuyệt đối ở đây. Nếu cô chỉ vào chim và bảo nó là cá, tất họ sẽ đều nhất trí rằng cá bay cũng nghệ ra phết.

“Ngươi thấy rồi đấy, ta có nhân chứng. Ta tuyên bố tội của ngươi là tòng phạm của tên này.”

“K-Khoan—!”

“Ta, Angela Jindel, Phó Chỉ Huy của Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín của Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa của Giáo Hội Chân Chính Harris, nay chuyển qua tuyên án. Tất cả các ngươi sẽ nhận án tử hình.”

Thật tuyệt khi đưa ra được cái tuyên bố đó. Thoắt một cái, cô đã có thể loại bỏ hết đám gai trong mắt mình.

“Bản án sẽ được tiến hành rạng sáng ngày mai. Một cái máy chém sẽ được dựng tại quảng trường chính, và hành quyết công khai sẽ được tổ chứ!”

“Khoan! Khoan đã, ngươi không thể—!”

“Mang chúng đi,” Cô ra lệnh cho các hiệp sĩ. Rồi cô nhìn quanh. Những ai nãy giờ nhìn chằm chằm vào “phiên tòa” vẻ đầy sửng sốt nhanh chóng cúi mặt xuống đất, thu mình lại hết sức có thể để không gây sự chú ý của Angela và người của cô.

Tốt. Thế này ít ra sẽ làm nhụt chí mấy kẻ trong số chúng khỏi mưu đồ xấu xa. Một hòn đá mà cô giết được bao nhiêu con chim rồi nhỉ? Tay to mặt lớn đúng là quan trọng trong ngành giáo dục mà.

“Được rồi, tiếp tục đi tuần thôi,” cô bảo đám hiệp sĩ, nghe có vẻ hài lòng. Rồi cô nhanh chóng cất bước.

Lúc Yukinari và những người khác từ Friedland trở lại thánh địa thì mặt trời đã lặn. Yukinari vốn chỉ có ý định làm những điều mình vẫn làm: xem mọi thứ trong thị trấn tiến triển ra sao, đưa ra vài đề xuất, và về nhà. Song giải quyết vụ tấn công (hay muốn gọi là gì thì tùy) của lính đánh thuê Veronika đã khiến cậu về trễ hơn nhiều so với mọi khi. Thông thường, sẽ rất nguy hiểm khi rời thị trấn sau khi trời tối, nhưng với cả “thổ thần đương nhiệm” Yukinari và Ulrike thân cận Yggdra cùng nhau, thì chẳng có gì phải lo lắm. Dù sao thì cậu cũng có cảm giác rằng không có con vật nào lởn vởn tối nay.

“Cơ mà, thành ra chúng ta mất cả ngày ở thị trấn,” Yukinari lẩm bẩm. Cậu ngồi dưới sàn trong phòng mình, bên cạnh tấm bản đồ khu vực chiếm vài phần diện tích. Cậu có vài điều cần suy nghĩ, và xem xét cái sơ đồ này khiến cậu sắp xếp suy nghĩ của mình dễ dàng hơn.

Aldreil.

Yukinari đã nhớ chính xác: cậu và Dasa đã đi qua đây một lần, trước khi tới Friedland. Thành phố có vẻ như chỉ đơn giản là từ đường chính mọc lên; nó dễ dàng để vào—và ra—hơn nhiều thị trấn khác ở biên giới.

Aldreil có mất tầm bốn năm ngày đi bộ từ Friedland. Với một khoảng cách như vậy, khó mà quyết định được nên làm gì. Bằng xe ngựa, khá có khả năng sẽ đến được đó trong vài ngày. Nó quá gần để mà lờ đi hoàn toàn, nhưng lại không đủ gần để ngay lập tức làm điều gì đó trong tương lai không xa. Có lẽ nó thự sự đã bị biến thành căn cứ cho Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa, nhưng nếu vậy, sẽ rất khó để xác định sức mạnh lực lượng của chúng.

Cậu cũng phải nghĩ về Rostruch. Rostruch qua Friedland là mất vài ngày đường, vậy nên giả sử một đơn vị Lệnh Truyền Giáo khởi hành tới thị trấn đó, có lẽ chúng sẽ qua Friedland trước. Theo tin chính thức, Arlen và đơn vị của hắn vốn đã khuất phục Friedland. Điều đó tức là rất có khả năng bất cứ đơn vị nào gắn với Rostruch đều sẽ đi qua thị trấn vốn đã “được cải đạo.”

Ulrike đã có mặt trong tất cả mọi thứ ngày hôm đó, nên không cần thiết phải cảnh báo lại, nhưng Rostruch là tòng phạm của Friedland trong việc tiến hành giao dịch chui và có khả năng bị coi là liên minh với thị trấn nếu như xảy ra một cuộc đối đầu với Lệnh Truyền Giáo. Thế thì cậu lại phải cân nhắc chuyện gì có thể xảy ra kế tiếp.

“Yukinari, tôi nói được chứ?”

Cậu ngước nhìn thấy Ulrike ở phía xa của bản đồ. “Hửm? Ồ, được. Nhóc muốn nói—” Cậu ngừng lại. “Ulrike.” “Hửm?”

“Đừng ngồi xổm kiểu thế.” “Sao đừng?”

“Nó… không mang lại nhiều suy tưởng cho lắm.”

Ulrike nghiêng đầu khó hiểu một lát, rồi nói, “À! Cái này liên quan đến sinh sản. Có phải tư thế ngồi xổm thổi bừng lên ngọn lửa dục vọng của anh không?” Vì lí do nào đó, thân cận của Yggdra này—một thổ thần gốc thực vật—nói nghe có vẻ hài lòng.

“Không có đâu.”

“Ổn thôi mà. Anh là đồng bào động vật.”

“Cứ che lại đi, được không?!” Yukinari tuyệt vọng nhìn đi chỗ khác.

Ngay cả việc thấy nhỏ khỏa thân thế nào đó lại không có vẻ rõ là sai trái như khi thoáng thấy cặp đùi hé ra từ gấu quần áo. Áo choàng của Ulrike lòng thòng—nhưng, giống áo khoác đuôi tôm, lại dài hơn ở phần lưng, để lộ ra phần nhiều chân với giò ở mặt trước. Khi nhỏ cúi xuống, chiếc áo thực sự che đi rất ít.

Thực tế là, Ulrike đang mặc quần nhỏ—một y phục che chắn phần thân dưới của nhỏ như một sự kết hợp của vớ và tất dài. Nhưng vì lí do nào đó, nó lại để lộ ra phần đùi trong, và khi nhỏ cúi xuống, lớp da trần thông thường được che dấu này lộ hết cả ra ngoài. Cộng thêm vẻ bề ngoài rất trẻ của Ulrike, khiến cho Yukinari cảm thấy nhiều hơn là một chút đen tối.

“Được rồi. Nhóc muốn nói gì nào?”

“Mm. Về cuộc thảo luận sáng nay. Chúng tôi đã có, theo cách của chúng tôi, một ý tưởng. Chúng tôi mưu cầu ý kiến của anh.”

“Nói xem nào,” Yukinari nói, thẳng lưng dậy. Cậu muốn đàng hoàng nhất có thể bởi cậu biết rằng trong cuộc trò chuyện này, cậu sẽ nói không phải với “Ulrike,” mà với ý thức chung của tất cả những con người tạo nên bản ngã của thổ thần gốc thực vật, Yggdra. Theo nhiều cách, ấy là điều sát nhất so với suy nghĩ của Yukinari khi cậu tưởng tượng một “vị thần.”

“Xét đến vấn đề giao thương,” Ulrike nói. “Có phải Friedland và Rostruch hơi cách xa nhau không? Để đi từ chỗ này qua chỗ kia theo định kỳ là một chuyện, nhưng có lẽ chúng quá xa nhau để vận chuyển hàng hóa trên cơ sở hàng ngày.”

Yukinari không đáp ngay. Cậu đã cho là nhỏ muốn muốn nói chuyện nên làm gì nếu Lệnh Truyền Giáo tấn công, và giờ thì phải định hướng lại bản thân mình. “Thì, đúng đấy, cơ mà…”

Mầm và hạt là một chuyện; một số lượng tương đối nhỏ của chúng có thể được mang tới Friedland và dùng để trồng thêm. Nhưng nếu phải vận chuyển một lượng lớn túi tắm chứa đầy bột mì, họ sẽ cần lính gác, và lượng nhân lực cần thiết để tiến hành thương nghiệp sẽ tăng lên đáng kể. Yukinari đã xác định rằng ngay cả vậy, vẫn sẽ có đủ lợi ích cho cả hai bên để biện hộ cho nỗ lực. Đó là lí do tại sao cậu khởi xướng giao thương ngay từ đầu.

“Về vấn đề đó,” Ulrike nói. “Vậy còn một phương thức vận chuyển không sử dụng lính gác hay xe kéo thì sao? Số lượng có thể được chuyển sẽ hạn chế, nhưng cũng sẽ đòi hỏi ít tài nguyên hơn.”

“Không lính gác hay xe kéo à? Chẳng có cách nào—”

“Có một cách mà tôi vận chuyển anh từ Rostruch tới Friedland trước đây mà, phải không?”

“Vận chuyển anh hả? Ý nhóc là—”

Cuối cùng cậu cũng hiểu điều nhỏ đang hướng tới. Hồi Yukinari tới Rostruch để điều tra khả năng giao thương, một á thần đã tấn công Friedland khi cậu vắng mặt. Cậu đã cần phải lao về nhà để bảo vệ thị trấn, nhưng khoảng cách quá xa đến nỗi ngay cả Yukinari cũng khó mà đi rất nhanh được. Vào dịp ấy, cậu đã nhận sự giúp đỡ từ “mẹ” Ulrike, Yggdra.

“Anh không chắc hầu hết mọi thứ có thể chịu được việc bị ‘vận chuyển’ theo cách đó.”

Cậu còn nhớ trải nghiệm, và đối với cậu nó quá bạo lực với hầu hết người hay vật. Yggdra đã trả Yukinari, và cả Dasa, về Friedland bằng cách chăng một sợi dây leo qua các cành của hai cây lớn và phóng hai người về nhà. Về bản chất, họ đã đi bằng cái súng cao su lớn nhất thế giới.

Không cần phải nói, để biện pháp này an toàn một chút, một vài cách để giảm tốc trước khi tới điểm đến là cần thiết. Khi Yukinari ở dạng “thiên thần” —cơ thể cho phép cậu sử dụng tối đa sức mạnh—cánh mọc ra từ lưng cậu. Chúng không định để bay, nhưng có thể kiểm soát điệu bộ của cậu, nên cậu đã hạ cánh được xuống Friedland với một chút duyên dáng.

Nhưng một khối hoàng hóa chẳng có cách nào điều khiển đường bay của mình thì sẽ cứ thế đập xuống đất. Cho dù bên trong có còn nguyên vẹn, chúng sẽ tứ tán ra khắp nơi, và thu nhặt lại cũng là một việc nặng. Còn chưa kể đến sự nguy hiểm cho bất cứ ai chẳng may bị kiện hàng rơi vào đầu.

Tuy nhiên, Ulrike lại có cánh để giải tỏa những mối lo ngại này.

“Chúng ta không thể làm một cái hồ lớn và thả các kiện hàng vào đó sao? Để đảm bảo bên trong không tứ tán ra ngoài, chúng ta có thể sử dụng một lớp vỏ như anh đã làm trước đó.”

“Anh hiểu ý nhóc rồi…”

“Lớp vỏ” Ulrike đề cập tới là bán cầu kim loại Yukinari đã chế tạo ra như một cơ chế phòng thủ khi cậu đấu với Yggdra. Cậu có thể đơn giản làm ra một khối cầu hoàn chỉnh theo cùng một cách, và hạt giống hay bất kì vật giao nào có thể được đặt vào trong và phóng một cách an toàn. Khi khối cầu hạ cánh vào hồ. người ta sẽ lấy nó. Vấn đề được giải quyết. Nếu có thể đảm bảo các khối cầu được bắn với đủ độ chính xác, thì còn chẳng cần đến nước. Một cái lưới lớn có thể được sử dụng để hứng các kiện hàng.

Đề xuất của Uleikr rõ là có chút đáng chú ý. Cơ mà… “Một khoảng cách xa như vậy…”

Độ chính xác sẽ trở thành một vấn đề chính yếu. Nó tương đương với công việc bắn tỉa, dẫu là với những cái cây khổng lồ thay cho súng.

Môi trường không ngừng thay đôi; nó không bao giờ thực sự ổn định. Nhiệt độ và hướng gió có thể biến động ngày qua ngày, chưa nói đến mùa qua mùa. Cố để liên tục trúng “đạn” vào một điểm cụ thể là một đòi hỏi rất cao.

Cho dù Yukinari có thể tạo ra một cái hồ hay lưới đủ lớn, họ sẽ một tấm bản đồ chi tiết hơn hiện tại để điều chỉnh cho tốt, cùng với các thiết bị đo lường để cho họ biết nhiệt độ môi trường và hướng gió. Nếu họ canh sai góc dù chỉ một chút thôi, nó có thể lệnh khỏi mục tiêu đến vài trăm mét.

“Dù sao thì,” Yukinari nói. “Nhóc không lo khối cầu có thể bị tấn công bởi á thần bay hoặc ngoại thú sao?”

“Không biết,” Ulrike nói, trông lơ ngơ ra mặt. “Chưa thử bao giờ mà.” Thì, cũng phải.

Mà, đến một lúc nào đó, họ cũng sẽ phải phòng thủ trước những kẻ địch tới từ trên đầu. Á thần giống chim họ chạm trán trước đó đã có thể trốn thoát trong một trận chiến bởi nó ra khỏi tầm bắn của cả Durandall của Yukinari lẫn Ớt Đỏ của Dasa. Cả hai vũ khí đều bắn ra đạn, tức là chúng không chính xác đối với khoảng cách cực kì dài.

Có lẽ họ cần một loại sung và đạn có thể dùng được cho khoảng cách xa hơn nhiều so với hiện tại. Điều này đã canh cánh trong tâm trí Yukinari kể từ khi chạm trái con á thần bay đó, song cậu lại quá bận để suy nghĩ nhiều về nó.

Và nhỡ thực sự nổ ra một cuộc chiến với quân đồn trú ở Aldreil…

Trong trường hợp đó, vũ khí tầm xa có thể sẽ là một lợi thế. “Anh phải làm ra… một vài loại súng bắn tỉa…”

“Súng-bắn-tỉa…?” Ulrike nói, nghiêng đầu như một chú chim non.

Đó không phải một từ nhỏ biết, ở thế giới nơi nhỏ xuất thân. Tại đây, cung và tên bao trọn nhóm vũ khí tầm xa, và súng bắn bằng bột đen không hề tồn tại. Ít ra thì, Yukiari chưa từng thấy ai cầm một khẩu súng.

“Giải thích có khi đến sang năm mất,” cậu cười trừ nói. “Khi nào xong, anh sẽ cho nhóc xem.” Rồi cậu thêm. “Anh thích ý tưởng của nhóc đấy. Cảm ơn,” và xoa đầu Ulrike. Đó là điều cậu luôn làm với Dasa, và nó đã trở thành thói quen.

Ulrike giật mình thoáng chốc, nhưng rồi nhắm nghiền mắt lại như một con mèo, và mỉm cười. Đáng yêu một cách hủy diệt.

“Nói chung là, anh sẽ nghĩ xem có cách nào để nó hoạt động không.” Yukinari thấy tim mình nhảy vọt, và lặp đi lặp lại trong đầu, Nhỏ là một cái cây, nhỏ là một cái cây…

Có lẽ Ulrike nhận thấy điều này, hoặc có lẽ không, nhưng nhỏ gật đầu vui vẻ nói, “Ra vậy. Hiểu rồi. Tôi sẽ không ngại hỗ trợ anh nếu có thể, Yukinari, vì anh là bạn tôi mà.”

Sau khi nói chuyện xong với Ulrike, Yukinari trở lại phòng, thấy Dasa đang ngồi trên giường mình, đợi cậu.

“Yuki… Xét nghiệm.” “Ừm, anh biết rồi.”

Đôi mắt của Dasa không phải từ lúc sinh ra đã vậy. Cô nàng bị đục thủy tinh thể bẩm sinh, khiến cho cô phần nhiều là không thể nhìn. Yukinari đã đặt vào những thấu kính nhân tạo, và giờ cô có thị lực bình thường. Nhưng cách cậu điều trị Dasa là dựa trên những gì bác sĩ ở thế giới trước của cậu đã nói khi chị gái của Yukinari đang tiến hành phẫu thuật thủy tinh thể. Bản thân Yukinari không hề được đào tạo chuyên môn.

Cậu còn chẳng có phòng vô trùng để làm phẫu thuật. Cậu đã cố hết sức có thể để làm sạch và khử trùng mọi thứ, nhưng một người nghiệp dư cũng chỉ làm được có vậy. Kết quả là, cậu phải thường xuyên kiểm tra mắt Dasa để chắc rằng mọi thứ vẫn bình thường, đặc biệt là không để bị viêm.

Cậu ngồi xuống kế bên Dasa và dướn người tới. “Anh sẽ bỏ kính của em ra.”

Nhưng Dasa cầm tay Yukinari và nhẹ nhàng hạ nó xuống. “Dasa? Sao vậy?”

“Hôm nay đến lượt… em làm xét…nghiệm,” cô nói chầm chậm, vẫn nắm tay cậu.

“Ý em là sao?”

“Yuki, cơ thể… của anh.” Cô bỏ tay ra và chạm vào ngực cậu.

Nói đúng ra, cơ thể Yukinari không phải con người. Nó là một homunculus, được tạo ra bằng giả kim thuật. Cậu là một thiên thần—một từ có nghĩa sứ giả—một thiết bị giả kim sống vốn để dùng cho mục đích cải giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris. “Phép màu” mà các thiên thần có thể thực hiện sẽ thuyết phục người dân về sự thật trong những giáo lí của giáo hội.

Người đã kiến thiết cơ thể Yukinari là Jirina Urban, một nhà giả kim dưới sự giam cầm của giáo hội. Cô đã tự làm theo ý mình tạo ra một thiên thần có bản ngã—đó là Yukinari. Vì lẽ đó, giáo hội đã thanh trừng cô ấy, tức là chẳng còn ai có thể hoàn toàn tự tin khám nghiệm cậu.

Nhưng Dasa là em gái của Jirina. Cô đã là trợ lí của Jirina lâu như những gì mình có thể nhớ, nên cô nàng có vốn kiến thức tương đối bao quát về giả kim thuật. Thị lực kém đồng nghĩa với việc cô chưa từng đọc bất kì quyển sách nào về chủ đề, nhưng bằng cách liên tục trao đổi với chị gái, cô nàng đã trở nên khá thông suốt.

Như đã lưu ý, Giáo Hội giam lỏng các nhà giả kim và gia đình của họ—ngoài mặt, Giáo Hội Chân Chính lên án giả kim thuật là dị giáo—nên Dasa đã hầu như chẳng biết gì về thế giới bên ngoài cho đến khi gặp Yukinari. Kết quả phần nhiều những gì cô biết là được truyền lại, hoặc đúng hơn là, không có kinh nghiệm thực tiễn để chứng thực.

“Anh ổn mà.”

Dasa không nói, mà chỉ nhìn Yukinari trong sự khó chịu qua vành kính, nhưng vẫn để tay trên ngực cậu.

“Thôi được, anh hiểu rồi,” cậu nhún vai nói.

Thường thì Dasa khá sẵn lòng làm những điều cậu nói, nhưng thỉnh thoảng cô nàng lại bướng bỉnh ra mặt. Đặc biệt là liên quan đến “lĩnh vực” của cô nàng—giả kim thuật, thứ mà, sau khi Jirina mất, Dasa đã kiểu như là một giáo viên với Yukinari. Những lúc thế này, hành động tốt nhất là nghe theo cô nàng. Yukinari đã học được điều này từ kinh nghiệm qua những chuyến đi của họ. Khi thấy phật ý, Dasa có thể dỗi rất lâu.

“Cởi áo ra đi.” “Ừ, rồi.”

“Chỉ cần nói… một lần thôi.”

Yukinari cởi bỏ áo, và Dasa áp mặt lại gần ngực cậu. “Nè, em đang làm—”

“Giữ… nguyên.”

“A-Anh không nghĩ thế này là xét nghiệm đâu!”

“Có đấy,” cô nói, quay sang như thể sắp cọ má vào tấm ngực trần của cậu.

Phải mất một lát Yukinari mới nhận ra cô nàng đang tiến hành xét nghiệm bằng thính giác và xúc giác của mình. Bởi lẽ đã không thể nhìn quá lâu, nhận thức từ thính giác và xúc giác của cô rất phát triển. Và mặc dù giờ thể nhìn bình thường, có vẻ cô vẫn còn vài rắc rối trong việc dựa dẫm vào thị giác của mình—cô ưa cách xác nhận những gì mình thấy bằng việc nghe và chạm hơn, và thậm chí cả khứu giác.

“Nhắm… mắt lại, và nằm… sang bên đi.” “Ừ… Ừm…”

Cậu hiểu ý tưởng, nhưng đây là lần đầu tiên cô nàng đi sâu vào việc khám nghiệm cậu đến vậy. Bối rối thật. Nhưng khi Dasa vào chế độ “em gái của nhà giả kim”, cậu biết tốt hơn hết là không mâu thuẫn với cô nàng. Thế nên là, do dự một chút, cậu nằm xuống giường.

Em ấy chỉ đang… dùng thính giác và xúc giác để kiểm tra mình thôi mà, phải không?

Cậu nhớ các bác sĩ ở thế giới trước của mình cũng làm điều tương tự. Nên cậu nhắm mắt, hít thật sâu, và để cho căng thẳng ra khỏi cơ thể.

Điều đầu tiên cậu cảm thấy là một ngón tay mỏng, lạnh. Nó rê một đường trên ngực cậu. Mới đầu thấy hơi nhột, nhưng chẳng mấy chốc đã khoan khoái man mát. Cái chạm mang một sự dịu dàng nhất định, nhưng thỉnh thoảng ngón tay sẽ ấn mạnh xuống hoặc vỗ nhẹ. Điều đó tức là cô nàng thực sự đang xét nghiệm cậu.

Đồng thời, Dasa áp tai vào ngực Yukinari, tỉ mỉ lắng nghe nhịp tim của cậu. Mái tóc bạc và hơi thở từ miệng cô cũng nhột, dến mức cậu tưởng mình sẽ bật cười phá lên mất.

Nếu có ai thấy họ như thế này, họ sẽ nghĩ sao? Ulrike có vẻ là đã đi ngủ, và Berta thì ở lại Friedland để trông chừng Veronika. Đúng ra thì chẳng còn ai khác ở thánh địa có thể thấy được họ.

Yukinari hé mở mắt. Khuôn mặt Dasa lại áp vào ngực cậu; cô đang cọ mũi vào nó nhẹ nhàng. Có lẽ là, đang kiểm tra mùi. Nghĩ lại thì, cậu có từng nghe động vật có thể phát hiện người ốm bằng mùi cơ thể của họ.

“…Yuki.”

“À, ừ, sao?” cậu nói, vội vã nhắm mắt lại. “Dạo… này anh đã… làm việc hơi nhiều rồi.”

“Anh không thực sự nghĩ thế đâu.” “Đừng có… cố quá, được chứ?”

“Anh ổn mà.” “Anh… không.”

Yukinari cạn lời. Dù tốt hay xấu, có vẻ cô nàng đã nhìn thấu cậu.

Yukinari đã quyết định ở lại Friedland, để làm thần của nó, vì Dasa. Khi lâm vào thời khắc sinh tử, Jirina, người cậu mắc nợ hết thảy, đã nhờ cậu chăm sóc Dasa, và để bảo vệ cô nàng, hai người họ đã sống trong sự chạy trốn kể từ lúc đó. Nhưng đối với Dasa, người chỉ mới biết đến cuộc sống trong một cơ sở Giáo Hội cô lập, việc di chuyển liên tục đang trở thành một gánh nặng. Vì lợi ích của cô, Yukinari đã muốn định cư ở đâu đó.

Điều này không khỏi tránh được tác động tới Dasa. Cô nàng đã mãi lo lắng về việc vì mình mà Yukinari phải ép mình đảm nhiệm vai trò của vị thần như thế này; chỉ nhìn thôi cũng làm cô đau.

“Yuki, anh… mệt rồi.” Dasa nói trong khi nằm trên người cậu.

“Có lẽ thế thật.”

“Nhịp tim và mùi của anh hơi khác so với lúc trước.” “Nhịp tim á? Anh nghĩ ấy chỉ là—” —là do điều mà em đang làm, cậu nghĩ, nhưng không thể nói thành lời.

Nói trước đây, có lẽ Dasa ám chỉ hồi họ thường ngủ chung một chăn hoặc áo khoác với nhau. Nay nghĩ lại, cậu nhớ Dasa thường áp tai vào ngực cậu và hít thở mùi hương của cậu. Dĩ nhiên, lúc đó cậu có mặc áo.

“Anh lo lắng điều gì sao?” cô hỏi. Lặng lẽ, như thể đang nói rằng, Anh có thể cho em biết mà.

Cô thực sự lo lắng cho cậu. Kể từ khi được Jirina giao phó Dasa cho, Yukinari đã luôn hết sức tập trung vào việc bảo vệ cô nàng. Cậu đã tin rằng mình sẵn lòng từ bỏ mọi thứ để thực hiện. Nhưng theo cách của riêng mình, Dasa cũng đang trông chừng cậu.

Cậu biết điều đó. Và dạo này, cậu không để ý nó nhiều. Có lẽ cậu cảm thấy hơi mệt. chỉ là cậu không có thì giờ để thừa nhận nó.

“Suốt quãng thời gian này,” cậu khẽ mỉm cười nói, “Anh đã cố bảo vệ những gì trước mắt. Chẳng hạn, đánh trả lại đợt công kích của Lệnh Truyền Giáo. Xua đuổi á thần đó để giúp giữ an toàn cho người dân thị trấn. Anh đã nghĩ rằng mình có thể xoay sở bằng việc bảo vệ những gì trước mắt, những gì trong tầm với.”

Dasa không nói, nhưng cậu cảm nhận sự xáo trộn áp vào lồng ngực mình. Cậu đặt một tay lên lưng cô nàng nói tiếp.

“Cơ bản anh nghĩ là, nếu có thể bảo vệ em, thì vậy là đủ. Anh mà quan tâm đến điều gì khác cơ chứ? Anh đã chết một lần rồi, và ở đây anh không có chị gái—hay gia đình gì cả. Anh không biết phải làm gì, nhưng ít nhất muốn làm điều đó, bảo vệ em. Anh nghĩ nếu làm được, mọi thứ có lẽ sẽ ổn.”

“Yuki…”

“Nhưng dạo gần đây anh đã nghiệm ra rằng nó phức tạp hơn thế.”

Để bảo vệ một ai đó, giúp họ yên tâm sống cuộc sống của mình, thì cần phải đảm bảo một môi trường mà họ không cần phải lo nghĩ, mà có thể sống. Song để duy trì sự ổn định trong một môi trường về cơ bản là không ổn định đồng nghĩa với việc phải đảm bảo tiềm lực để phản ứng trước những diễn biến đột ngột hoặc khó lường trước.

Và theo lẽ đó, cần thiết phải xét đến một môi trường thậm chí còn lớn hơn.

Và…

“Anh xin lỗi, Dasa.”

Một sự im lặng khó hiểu.

“Trước mọi chuyện xảy ra, anh cũng đã trở nên quan tâm tới cả những người Friedland.”

Cậu đã chỉ có ý định sử dụng thị trấn này như một môi trưởng mà cậu có thể tận dụng để bảo vệ Dasa. Nhưng giờ cậu lại thấy người dân thị trấn có ý nghĩa gì đó với cậu—có lẽ, không nhiều như Dasa, mà gì đó. Tại đây, dĩ nhiên, có những người cậu thân thiết, như Berta và Fiona, nhưng cũng có nhiều cư dân thị trấn cậu đã gặp thông qua họ. Hầu hết họ đều tôn kính Yukinari như một vị thần; họ nhìn cậu với sự kính trọng sâu sắc trong đôi mắt. Làm sao cậu có thể không có cảm giác gì với họ được cơ chứ?

“Nhưng vậy tức là anh phải chăm sóc một môi trường thậm chí còn lớn hơn.”

Để giữ Friedland an toàn, cậu đã khởi xướng giao thương với Rostruch, và kết quả là cậu đã có được sự quen biết cá nhân với thổ thần Yggdra của Rostruch và các thân cận của cô ta, bao gồm cả Ulrike. Ulrike đã gọi cậu là bạn; ấy là một dấu hiệu cho thấy họ không đơn thuần chỉ là đối tác giao thương—họ không chỉ đang lợi dụng nhau vì lợi ích của cả hai phía.

Người quan trọng nhất trong cuộc đời Yukinari thì vẫn, không nghi ngờ gì, là Dasa. Nhưng trước đây, chỉ mình Dasa là quan trọng với cậu. Không hề có câu hỏi về thứ tự nào cả, vì chẳng còn ai khác trong tim cậu. Giờ thì cậu ấp ủ thêm rất nhiều điều. Có niềm vui ở đó, nhưng nó cũng đè nặng lên cậu.

“Anh phải nhìn xa hết sức của mình nếu định đảm nhiệm trọng trách của thổ thần,” cậu nói. “Người dân thị trấn mong đợi điều đó từ anh. Trước kia, anh luôn cảm thấy rằng mình phải làm những gì có thể. Nhưng nếu định giả làm thần, thì có thêm rất nhiều điều phải lo nghĩ. Theo cách nhìn đó, thành thật mà nói, anh nghĩ mình còn non nớt về việc một vị thần là như thế nào.”

Ở cuộc sống trước của cậu, mẹ Yukinair đã bị cuốn vào tôn giáo và bỏ lại gia đình của mình, vậy nên cậu hoài nghi sâu sắc toàn bộ khái niệm “thần thánh.” Trong mắt cậu, nó chẳng khác nào một cách để ngăn mọi người suy nghĩ, cướp đi thời gian và tiền bạc của họ. Cơ mà…

“Bỏ qua một bên đạo đức của việc hiến tế người sống, thổ thần thực sự rất tuyệt vời. Chúng có thể làm tất cả những điều này… một cách tự nhiên. Không phải là nếu có thể thì anh muốn hòa làm một với đất; anh sẽ mất đi bản ngã của mình.”

“…Yuki.” Dasa, một cách bất thường, ngắt lời cậu. Cậu nhìn và thấy cô nàng vẫn nằm trên người bình—nhưng đã hơi dướn lên để nhìn vào mắt cậu.

“Chắc chắn là anh… đang làm việc quá nhiều rồi.”

“…Có lẽ vậy.”

“Anh muốn… tự mình… làm mọi thứ.”

Câu này khiến cậu chớp mắt.

“Anh… bảo vệ em, Yuki… nên em muốn… bảo vệ anh.”

“Dasa…”

“Qua giả kim thuật… con người cố hiểu… quy luật của tự nhiên, và… sao chép chúng. Có lẽ anh… không phải thần, Yuki… nhưng rồi một… ngày… anh sẽ có thể làm điều tương tự như một vị thần. Em chắc… đấy.” Giọng cô nàng toát lên niềm tin tuyệt đối. “Và em… sẽ giúp anh.”

Một khoảng lặng dài trước khi Yukinari lên tiếng, “Cảm ơn.”

Rồi cậu vò tóc cô nàng. Cô gái tóc bạc nheo mắt như một con mèo đang nũng nịu chủ nhân của nó và lại áp má vào ngực Yukinari.

Đêm đó, Berta lưu lại Friedland thay vì trở lại thánh địa. Là một vu nữ đã được dâng cho Yukinari, thường thì trọng trách của cô là ở bên cậu, nhưng Fiona đã đặc biệt yêu cầu cô ở lại và Yukinari đã đồng ý, nên tối nay cô đang ở dinh thự Schillings.

Fiona muốn Berta để mắt đến người lính đánh thuê, Veronika.

Cuối cùng, hiện tại Veronika được phép ở phòng khách của dinh thự. Cô ta rõ ràng là mạnh mẽ và có vẻ đang cố tỏ ra bình thản để không lộ vẻ yếu đuối nào. Song cô đã chạy trốn từ Aldreil tới Friedland mà không được nghỉ ngơi hợp lí, và cũng bị thương nữa; sự mệt mỏi sẽ rất căng cực. Ai đó sẽ phải để mắt tới sức khỏe cô ta một lát.

Hiện tại, Friedland đang thực hiện một số dự án phát triển theo đề xuất của Yukinari, chủ yếu là để cải thiện nông nghiệp. Phần lớn dân cư đang bận rộn với những dự án ấy và không thể giúp chứa chấp một vị khách không mời mà đến. Do đó, trách nhiệm với Veronika đã rơi vào Berta.

Nhưng sau khi thay băng cho vết thương của Veronika, mang thức ăn, và dọn phòng, cô thấy mình chẳng còn gì để làm nữa.

Berta vốn chưa từng được giáo dục tử tế. Nhiều nhất là, cô biết cách giữ gìn sạch sẽ để không gây rắc rối cho người khác. Cô biết rằng các vết thương của người lính đánh thuê phải được giữ sạch và thay băng mới thường xuyên, nhưng ngoài ra thì không nhiều lắm.

“Um…”

Cô nhìn Veronika, do dự. Xuyên suốt cuộc đời mình, cô đã được vây quanh bởi những cô gái trẻ hơn—nên khi đối diện với một người phụ nữ trưởng thành, cô không chắc phải làm gì cho lắm. Cô nghĩ có khi nói chuyện gì đó thì tốt, nhưng không biết nói gì.

Veronika là lính đánh thuê. Berta biết từ ấy, nhưng chẳng rõ công việc thực sự đòi hỏi điều gì—ngoài việc lính đánh thuê có vẻ như là những người đáng sợ. Và mặc dù thực ra Veronika khá dễ thương, biểu hiện cứng rắn thường trực trên mặt cô ta khiến Berta ngại ngần bắt chuyện.

Nên là một sự im lặng cực kì khó chịu bao trùm phòng khách.

Dẫu vậy, Veronika vẫn không có dấu hiệu gì là sắp ngủ, nên Berta còn chẳng rõ liệu có hợp tình hợp lí không khi cô lui sang phòng khác. Dù tốt hay xấu, Berta là một người rất nghiêm túc, nên khi được bảo phải ở với Veronika mọi lúc, cô sẽ không trốn tránh trách nhiệm của mình. Cơ mà…

“Ngươi.”

Có lẽ ngay cả Veronika cũng không thể chịu sự im lặng thêm được nữa, bởi cô chợt lên tiếng. Berta hơi chút hoảng hốt đáp lại, nhưng bên trong, cô cũng vô cùng nhẹ nhõm.

“À, v-vâng? Tôi có thể làm gì cho cô?”

“Nói cho ta tên của ngươi được không?”

“Ồ…” Chỉ đến lúc đó Berta mới nhận ra rằng mình còn chưa giới thiệu bản thân. “T-thứ lỗi. Tôi được gọi là Berta!”

“Berta. Hừm…” Veronika lẩm bẩm cái tên như đang thử sức nặng của nó; rồi cô ta hướng ánh mắt lại về phía người chăm sóc mình, tính toán. Cuối cùng, cô nói, “Xin lỗi.”

“Hả…?” Suốt một lúc, Berta không thể hiểu tại sao người phụ nữ lại xin lỗi.

“Cô là một dạng như người phục vụ cho chàng trai Yukinari đó, phải không? Và cô bị kẹt ở đây để chăm sóc cho tôi.”

“Tôi… Tôi không phải người phục vụ của ngài ấy. Tôi là một vu nữ được dâng cho Chúa Tể Yukinari.”

“Vu nữ?” Veronika cau mày hỏi.

Một người sống ở đây hẳn sẽ phỏng đoán từ khái niệm đó rằng cô ấy là một vật tế sống được dâng cho thổ thần, và họ sẽ biết thổ thần là những loài động vật đạt được trí thông minh bằng cách nào đó và trở nên gắn liền với đất đai.

“Tên Yukinari… này. Hắn dạng như là tu sĩ hả?”

“Không, ngài là thổ thần đáng kính.”

“Thổ thần? Hắn ư? Một con người á?”

“Phải. Chúa Tể Yukinari thường gọi mình là ‘thổ thần tạm thời’… Nhưng đối với thị trấn này, và đối với tôi, ngài là một người rất quan trọng, và là một vị thần.”

Veronika dường như không bị thuyết phục cho lắm, nên Berta đành kể lại câu chuyện: việc cô đã được hiến tế cho thổ thần như thế nào; Yukinari đã tới và đảm nhiệm vai trò thần của Friedland ra sao. Vui vẻ vì có chuyện để nói, Berta có lẽ còn đi vòa những chi tiết không cần thiết khi đề cập tới câu chuyện.

“…Và thế là, thì, tôi là vu nữ được dâng cho Chúa Tể Yukinari. Mặc dù tôi thừa nhận mình chưa thực sự làm được công việc của mình một cách tử tế…” “Công việc? Tôi tưởng hắn ta không phải là một con quái vật ăn thịt người?”

“Đúng vậy. Nên hiến dâng mình cho ngài chỉ có thể nghĩa là, ừm…” Mặt cô đỏ bừng.

Yukinari từ chối việc đối xử với Berta như là tài sản được trao cho mình; thay vào đó, cậu đủ tốt bụng để coi cô như một con người. Cô không thích hợp để làm thức ăn cho cậu, rõ rồi, và không có tài năng đặc biệt gì cả, nên cô nghĩ có khi ít ra mình có thể trao mình cho ngài qua đường tình ái. Nhưng Yukinari còn chẳng bao giờ đến mức đụng tay vào cô. Thế nên, tới ngày hôm nay Berta vẫn ấp ủ nỗi lo rằng mình đang hoàn toàn thất bại trong vai trò vu nữ của mình.

Trước khi kịp nhận ra, Berta đã tiết lộ cả điều này với Veronika.

Cô chỉ muốn giúp xua tan bầu không khí bức bối trong phòng, nhưng thành ra cô lại huyên thuyên về những thứ mà có lẽ Veronika chắc chẳng để vào tai. Tuy nhiên, đến lúc nhận ra thì đã quá muộn để rút lại.

Veronika, về phần mình, dường như không có cảm giác bị cuốn vào quá nhiều câu chuyện.

“…Đúng thật,” Veronika nói sau một lúc lâu. Giọng cô có chút nhẹ nhàng hơn hồi nãy. “Một khi đã quen một cách sống nhất định, thì khó mà thay đổi. Rất khó.”

“Ùm, Cô… Verokia?” Berta chớp mắt. Nhưng Veronika không có vẻ có hứng nói thêm điều gì; cô nằm trở lại giường và ngoảnh đi, lặng lẽ kết thúc cuộc trò chuyện. Dường như cô định nói rằng mình đã sẵn sàng đi ngủ. Berta quan sát cô ta một lát.

“Ngủ… Ngủ ngon nhé.”

Nói đoạn, cô cúi một lần và rồi, hết sức lặng lẽ, bước ra khỏi phòng.

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật
Lượt đọc 31

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.