Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

CƠN BÃO HỘI TỤ

Phiên bản Dịch · 18390 chữ

Nhóm dịch : Valvrareteam

CHƯƠNG HAI: CƠN BÃO HỘI TỤ

Justin Chambers bước xuống cầu thang tầng hầm, một mình và lặng lẽ.

Lão là Dominus Doctrinae, quan chức cao nhất trong Giáo Hội Chân Chính Harris. Thường thì lão sẽ không đi bất cứ nơi nào không có người trông coi. Nhưng hiện giờ, giữa đêm thanh vắng, lão một mình hướng tới tầng hầm. Xuống một cơ sở mà, chính thức, không tồn tại. Rất ít người trong Giáo Hội có thể tình cờ trông thấy lão thế này. Đây là một nơi mà Giáo Hội—và Dominus Doctrinae—đã cố tình che giấu qua hàng thế hệ.

“Hự…”

Lão đẩy cánh cửa kim loại nặng tới cơ sở dưới lòng đất.

Nơi mà lão đang tới có một bầu không khí rất khác so với nơi lão xuất thân. Nó hoàn toàn đơn điệu; thay vào đó, các bức tường ở đây lại được phủ giá kệ—nhiều đến mức chả thấy tường đâu. Các giá kệ được sắp đầy vật phẩm và dụng cụ. Một vài bằng kim loại, một vài bằng kính, một số bằng nhựa, trong khi một số khác được làm bằng chất liệu lão không xác định được. Tất cả chúng đều là những bí ẩn với Justin; lão còn chẳng biết chúng được gọi là gì, chứ đừng nói đến cách sử dụng.

Bất kể có là gì đi nữa, chúng không khiến người ta nghĩ tới một tòa nhà tôn giáo—chắc chắn không phải tầng hầm của Đại Thánh Đường. Trên trần nhà, cùng với chiếc đèn treo ở đó để chiếu sáng, có thể thấy vô số đường ống. Cái rộng cái hẹp, những đường ống rẽ ra nhiều hướng và những cái khác tụ lại với nhau. Một số được kết nối với mạch hình cầu, hoặc hình vuông—mấy cái khác Justin không hiểu.

Sâu trong căn phòng là chủ nhân của nơi này.

“Chào mừng đến với phòng thí nghiệm của em,” người phụ nữ cao, gầy, cúi chào nói.

Ả có lẽ chỉ vừa qua tuổi đôi mươi. Mái tóc đỏ rực của ả được buộc lại và hất qua vai trái. Ả mặc một bộ đồ đen dài, ngực mở ta như thể gọi mời sự chú ý. Trông ả không giống một người có liên quan đến nhà thờ cho lắm. Mà thực ra, người ta có thể nhầm ả là gái điếm. Thoạt nhìn, chắc sẽ chẳng có ai đoán ả là một nhà giả kim—trừ khi trông thấy tay ả.

Cánh tay chống hông của ả được bọc trong găng tay trắng, với một ma dấu phức tạp ở mu bàn tay. Nó là sự kết hợp của một loạt các biểu tượng và chữ cái—một “vòng tròn truyền biến” được các nhà giả kim ưa chuộng. Vòng tròn trên chiếc găng không thực sự thiết thực; nó giống một bản thiết kế, một thước đo hơn. Song đây lại là một điều nữa mà Justin không biết.

Jaroslava Vernak là tên của người phụ nữ.

“Có bảo có điều muốn cho ta thấy,” Justin nói.

“Và quả là vậy. Lối này.” Jaroslava ra hiệu với một nụ cười quyến rũ. Ả chỉ một cánh cửa khác, làm bằng gỗ. “Ngài đã sẵn sàng chưa, thưa Đức Thánh Cha?” ả hỏi. Ả đang mỉm cười như thể sắp sửa chơi khăm lão.

“Có nhất thiết không?”

“Có chứ. Em nghĩ ngài sẽ thấy điều này hơi sốc đấy.”

Jaroslava vốn luôn được giao cho quyền dẫn dắt, nhưng hôm nay lão cảm nhận được ở ả một lực hấp dẫn thật khác thường. “Ngươi lúc nào mà chả làm ta sốc,” Justin cười gượng gạo nói. “Giờ thì người còn đe dọa ta bằng cái gì nữa đây?”

“Tốt lắm, thưa Đức Thánh Cha,” ả nói. “Vậy, hãy nhìn vào đây.” Ả mở cửa và hối Justin vào.

Một bình chứa cỡ bự đặt ngay chính giữa phòng. Nó chứa đầy chất lỏng mờ đục có màu đỏ thẫm của máu—cứ cho là một dạng của dầu thánh. Nó không rộng lắm; kích thước và hình dạng của nó giống như một cỗ quan tài được dựng đứng lên.

“Lời xin lỗi chân thành nhất của em vì đã để ngài đợi,” Jaroslava nói. “Cho phép em được giới thiệu với ngài nguyên mẫu của ‘thiên thần’ Vernak.”

Ả kéo một sợi xích thòng xuống từ trần nhà. Plúp một cái, và một bong bóng duy nhất nổi trong ống dầu thánh. Một lát sau, một xoáy nước chậm hình thành và mực nước bắt đầu sụt. Có vẻ là, ả đang hút cạn dầu thánh. Khi chất lỏng ngày càng xuống thấp hơn, vật thể ẩn trong ống trở nên rõ ràng.

“Cái gì thế…?” Quả thực có nét kinh ngạc trong giọng Justin. Lão đã lệnh cho Jaroslava tạo ra một thiên thần mới thứ mười bốn, nhưng lão cho là sẽ mất thời gian. Các thiên thần vốn là công trình của một dòng họ giả kim thuật sư duy nhất được giữ bởi Dominus tiền nhiệm, nhưng khi Jirina Urban, một hậu duệ của dòng họ đó, đã bị xử tử như một tông đồ, phần lớn nghệ thuật chế tạo ra thiên thần đã bị thất lạc.

Lão cho rằng cẩn thận nghiên cứu các bản ghi chép dòng họ Jirina để lại sau cùng sẽ mang lại khả năng chế tạo những thiên thần tốt như họ, song lão chưa từng tưởng tượng vấn đề ấy sẽ đơn giản đến mức có thể hoàn thành trong một thời gian chóng vánh như vậy. Hoặc có lẽ đây là một minh chứng cho việc Jaroslava tài giỏi đến mức nào. “Đây là một thiên thần…?”

Cơ thể nó nhợt nhạt, vẫn còn bám vài vệt màu đỏ thẫm. Nó đang ngồi ở đáy ống dầu thánh, quay mặt đi khỏi họ. Hình dạng của nó yểu điệu, đường nét cơ thể được mô tả như những đường cong uốn lượn. Vô cùng cuốn hút. Thậm chí trước khi nhận thấy chỗ phình ra ở ngực, người ta có thể thấy rõ đây là một phụ nữ.

Không hề có một nữ homuncili, không nữ thiên thần nào cả. Hoặc là chưa từng có.

Nhưng giờ thì…

Giáo lí của Giáo Hội Chân Chính Harris dạy rằng hình thức cơ bản nhất của cơ thể con người là nam giới. Ngay sau khi thế giới được tạo ra, cả nhân loại đã chỉ bao gồm một người đàn ông duy nhất. Điều này tức là không hề có tranh đấu hay tức giận giữa con người, chỉ duy nhất một vị thần hoàn hảo, không già đi, không chết: đứa con yêu dấu của Chúa.

Nếu người đàn ông tiếp tục theo cách này, có lẽ thế giới đã thật tẻ nhạt, nhưng ít ra nó sẽ an toàn. Nhưng người đàn ông, kể rằng, đã phát ngán trước sự cô đơn và buồn chán: bắt chước điều Chúa đã làm, ngài lấy một miếng thịt của chính mình và tạo cho mình một người đồng hành—một phụ nữ. Kết quả là, sự ghen tuông và cuồng nộ đã đến với thế giới, và con người bắt đầu tranh đấu lẫn nhau. Chạm trán một người giống mình nhưng lại không phải là mình, người đàn ông đã học cách so sánh bản thân với người khác. Nhân loại không bao giờ có thể thuần khiết được nữa.

Đây là lí do tại sao Giáo Hội xem phụ nữ ở thấp hơn đàn ông: họ là cội nguồn của tội lỗi nguyên bản. Lẽ dĩ nhiên các thiên thần toàn phần quan trọng sẽ chỉ được làm giống như đàn ông.

“Ta cho là có vài lí do khiến cô tạo thiên thần này trong hình dáng của phụ nữ.” Tất nhiên,” Jaroslava nói với một nụ cười xảo quyệt. “Hai lí do, mới phải. Một là để làm mưu đồ chống Thiên Thần Xanh. Rõ ràng hắn có biết Giáo Hội Chân Chính Harris đang theo đuổi mình, nên sẽ đề phòng những kẻ địch nam giới. Một nữ giới có lẽ sẽ qua được hàng phòng thủ của hắn.”

Thiên Thần mới này đã được đặc biệt tạo ra cho mục đích tiêu diệt thiên thần thứ mười ba, tên gọi Thiên Thần Xanh hay Bluesteel Blasphemer. Dĩ nhiên cậu sẽ mong đợi bất kì thiên thần nào theo đuổi mình trông như một nam giới, nên một nữ thiên thần sẽ có cơ may lại gần cậu hơn.

“Và lí do còn lại?”

“Em tin chúng ta đã thảo luận rằng để đấu với Thiên thần Xanh, linh hồn con người trong lõi của tạo tác này sẽ không bị loại bỏ.”

Giáo Hội sử dụng homunculi để thực hiện phép màu giúp cải đạo quần chúng; chúng gần như là những tấm biển quảng cáo di động. Và biển quảng cáo thì không cần bản ngã hay khả năng hành động tự chủ. Các thiên thần nói chung được kèm bởi một người có việc điều khiển chúng, đánh giá phản ứng của người xem và phân phát phép màu tùy theo.

Bluesteel Blasphemer, tuy nhiên, lại giữ được ý thức bản thân, Đây là điều đáng lo ngại nhất và là lí do khiến Jirina Urban bị hành quyết vì đã tạo ra cậu.

Bản thân Blasphemer không quá vượt trội so với các thiên thần khác; thật ra, khả năng của chúng ít nhiều là như nhau. Nhưng với bản ngã của mình, Blasphemer không cần phải nhận lệnh. Khi đấu với một thiên thần khác, cậu nhanh hơn vô cùng so với một con rối không thể tự hành động hay suy nghĩ. Khả năng tiếp nhận tình huống, lựa chọn chiến thuật, và tiến hành nó là vấn đề sống còn trên mặt trận.

Nếu gửi đi đủ các đơn vị Lệnh Truyền Giáo để chống lại cậu, họ gần như có thể chắn chắn áp đảo được bất kể sức mạnh của cậu là gì. Nhưng thế thì sẽ quá công khai. Vụ bê bối về điều đang xảy ra trong Giáo Hội có thể sẽ phát tán ra ngoài.

Vì danh tiếng của mình, Giáo Hội đã tuyệt vọng trong việc thầm lặng đối phó với Bluesteel Blasphemer. Điều đó đòi hỏi một sát thủ có khả năng ngang bằng cậu. Và vậy tức là tạo ra một thiên thần không bị bỏ lõi—linh hồn người, với mọi kí ức và sự không hoàn hảo của nó, yên vị ở trung tâm của thực thể.

Đến như vậy…

“Em đã dùng một linh hồn là phụ nữ ở thế giới trước của nó. Nếu cố ép một linh hồn như vậy vào cơ thể nam giới, thì có khi sẽ gây ra những phức tạp không cần thiết. Ấy sẽ là một canh bạc, chứ không phải khôn ngoan. Sự hỗn loạn linh hồn cảm thấy có thể sẽ ngăn nó khỏi việc dùng hết sức mạnh, thậm chí có thể khiến nó phát điên. Rồi Giáo Hội sẽ có thêm một thiên thần làm kẻ địch, và vấn đề sẽ trở nên tệ hơn nhiều thay vì tốt lên.”

“Ta hiểu logic của cô rồi,” Justin nói. Lão nheo mắt nhìn cô gái trần truồng trong ống dầu thánh. “Thế? Nó đã cử động chưa?”

“Rồi. Không vấn đề gì cả.” Jaroslava nở một nụ cười khiêu khích và gõ nhẹ vào thành ống. “Dậy đi. Dậy đi và chào người cha đáng kính của con đi nào.”

“Cha…?” Justin có vẻ bị điều này làm phiền. Trước mặt lão, thiên thần thứ mười bốn mở mắt. Lưng nó, vốn dựa vào kính, thẳng dậy, và rồi nó ấn xuống đáy ống và cử động đứng dậy không hề do dự. Nó lại gần tấm kính, những giọt dầu thánh nhỏ xuống khỏi mái tóc dài vàng óng, và đặt lòng bàn tay áp vào mặt trong của tấm kính. “C…h…a…?” Nó ngây ngốc nhìn Justin. Đôi mắt đỏ thẫm nhìn vào Justin lưỡng lự.

“Cha?” Justin hỏi lại. “Ý ngươi là sao?”

“Thưa Đức Thánh Cha có biết các thành phần của một homunculus không ạ?” Jaroslava nói, rõ ràng là đang khoái trí.

“Thành phần…? Không, ta e là mình không biết những gì công việc này đòi hỏi.”

Dĩ nhiên, là không rồi. Chẳng có người ngoài nào biết được chính xác những gì liên quan đến việc tạo ra một homunculus, tinh hoa của giả kim thuật. Xét rằng thiên thần đã ở trong một cái ống chứa đầy dầu thánh chỉ mới lúc nãy, lão có thể đoán rằng dầu thánh có liên quan. Nhưng nhiều hơn thì chịu.

“Dĩ nhiên là không rồi. Cũng phải thôi. Để em làm sáng tỏ cho ngài nhé. Một trong những thành phần của homunculis là tinh dịch người.”

“………Ếm.”

“Ngài cô lập tinh dịch trong một bình chứa và để nó lên men. Một thứ trong suốt, hình người xuất hiện. Mỗi ngày ngài cho nó một chút máu người, và cơ thể bắt đầu phát triển. Vẫn còn nữa, nhưng đó là những điều cơ bản.” Jaroslava liếm môi bằng cánh lưỡi đỏ rực. “Em có nên nói cho ngài biết nơi mình lấy tinh dịch không?”

“…Cha.”

Homunculus mới chào đời, không hề cho thấy dấu hiệu của việc hiểu cuộc trò chuyện đang diễn ra trước mắt, tiếp tục nhìn Justin chằm chằm với đôi mắt đỏ máu của nó.

Rút cục, bốn ngày sau Berta vẫn ở dinh thự Schillings. Họ vẫn đang thiếu người, và Veronika thì chưa hoàn toàn tin tưởng người Friedland, cũng có vẻ là không sẵn lòng nói chuyện với ai khác ngoài Berta. Vài người tranh cãi rằng trong trường hợp Veronika trở nên bạo lực, Berta sẽ hoàn toàn vô dụng, nhưng xét đến việc ba hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo, bao gồm cả Arlen, còn không thể khuất phục người lính đánh thuê, việc cắt cử đủ lính canh tại phòng cô ta có vẻ là không thực tế cho lắm. Và thế là Berta tiếp tục trông chừng Veronika.

Bản thân Berta không phải là không vui vì điều này. Không hề có kĩ năng hay chuyên môn đặc biệt gì cả, cô hài lòng khi được giao việc, có gì đó mà mình có thể làm. Duy chỉ có sự thật là điều này đồng nghĩa với việc dành nhiều ngày xa khỏi những lời cằn nhằn của Yukinari.

“Um…”

Berta tới phòng khách với bông băng mới và một xô nước ấm. Veronika chỉ đang ngồi thẳng trên giường. Có vẻ là người lính đánh thuê biết Berta đang tới. Có lẽ cô ta đã nghe thấy những tiếng bước chân lặng lẽ của cô gái, hay chỉ đơn giản là cảm nhận được sự hiện diện. Bất luận thế nào, Berta chưa bao giờ thấy Veronika ngủ mà không phòng bị. Nằm xuống với đôi mắt nhắm, phải, nhưng Berta thế nào đó luôn biết rằng vào những lúc ấy, Veronika vẫn còn thức. Ấn tượng của cô là Veronika chỉ đang giữ bình tĩnh để hồi phục sức khỏe của mình.

“Tôi có thể… thay băng được không và, ừm… giúp cô rửa ráy?”

Đây đã là lần thứ tư rồi, nhưng với Berta, Veronika vẫn toát ra khí của một con thú hoang, như kiểu sẽ cắn nếu như không được chăm sóc cẩn thận. Đây có vẻ là sự hiểu lầm của Berta.

“Xin lỗi vì đã gây rắc rối,” Veronika nói vẻ hối lỗi.

“Được rồi, thế thì…” Berta vươn một tay ra, nhưng Veronika ngăn cô lại.

“Không, ổn thôi, tôi sẽ tự cởi đồ.” Cô cởi bộ đồ ngủ. Vì cả hai đều là nữ, nên không có sự ngượng ngùng nào cả, nhưng do các vết thương, cử động của cô vẫn còn ngập ngừng.

“Tôi sẽ gỡ những băng cũ trước,” Berta nói, tháo lớp phủ đẫm mồ hôi và máu. Cô không phải bác sĩ, và đây là giới hạn những gì cô có thể làm, nhưng sau khi làm nó mỗi ngày trong bốn ngày liên cô đang dần trở nên khá hơn. Chậm rãi, cẩn thận không chạm vào vết thương, cô tìm cách xoay sở với cơ thể săn chắc của Veronika.

Nó thật khác biệt so với của mình, cô phản ánh. Berta không hề béo, nhưng cơ bắp của cô không được nổi bật như Veronika. Da Berta thì mềm; lấy ngón tay ấn và nó sẽ hơi ngập xuống. Da Veronika thì căng; nó sẽ đẩy lại một cú chạm. Ấy là cơ thể của một người đã trải qua nhiều sự rèn luyện. Bằng cách nào đó, nó làm Berta liên tưởng tới một con thú hoang.

Sẹo lằn trên da. Có mới, có cũ. Có lớn và có nhỏ.

Những vết sẹo là một minh chứng không lời cho kiểu cuộc sống mà người phụ nữ đã trải.

So sánh với Veronika, Berta cảm thấy mình—không hẳn là được ban phước, mà là đã có một cuộc sống khá bình lặng. Cô chưa từng nghĩ về việc chiến đấu, về việc tranh chấp với người khác. Cô thậm chí còn chưa bao giờ thực sự chủ động làm bất cứ điều gì, mà luôn làm như được bảo. Cô không khỏi cảm thấy rằng trong mắt Veronika, cô hẳn là một thứ xấu xí và đáng thương hại.

“Các vết thương đã lành miệng rồi, hầu hết.” Veronika đang nhìn các thương tích dưới băng gạc với ánh mắt vô cùng ấn tượng.

“Phải,” Berta đồng tình, cuộc băng cũ lại và bỏ chúng vào túi. Các vết thương không hề có dấu hiệu mưng mủ, và chỗ sưng cuối cùng cũng đang dần xẹp xuống. Như Veronika nói, đợt thay băng tiếp theo hẳn sẽ không có chút máu nào cả. Dường như cô cũng không có chấn thương nội tạng bên trong nào, nên hồi phục hoàn toàn không phải là quá xa vời cho lắm.

“Mới đầu những vết cắt cũng không sâu lắm đâu,” Veronika nói. “Khi máu ngừng chảy, thì vậy là đủ rồi.”

“Đủ gì cơ?” Berta thắc mắc; nghe như thể Veronika không định hồi phục nhiều hơn mức đó.

Mãi sau, sau khi Veronika cho phép cơ thể mình được rũ sạch và Berta đang thay băng mới, người lính đánh thuê nói, như thể vừa nảy ra trong đầu:

“Cảm ơn vì mọi thứ.”

“Ồ, không sao đâu… Tôi xin lỗi vì đã không thể giúp cô nhiều hơn.” “Bạn bè tôi đang bị giam giữ ở Aldreil.”

Lời này đến rất bất chợt.

“Ồ, ùm, những người lính đánh thuê khác ư…?”

“Phải, cùng với người thuê tôi. Cho tới khi hợp đồng kết thúc, ông ta cũng là bạn của tôi nữa.” Veronika chờ Berta thay băng xong, rồi đứng dậy khỏi giường.

“Ế, cô đang định—?”

“Tôi sẽ đi cứu bạn mình.” Nghe cô nói suồng sã đến mức phải mất một lúc Berta mới hiểu.

“Hả? Nhưng mà—”

“Cảm ơn lần nữa. Cô có sự biết ơn của tôi. Hãy tốt bụng nói cho tôi biết vũ khí của mình đang cất ở đâu.”

Berta không thể nói ngay. Cô úp úp mở mở mấy bận trước khi lên tiếng, “T—Tôi biết vết thương của cô đã đỡ hơn, nhưng mà… Vẫn còn quá sớm để—” Cô nhận ra ở một mức độ nào đó rằng mình đang không hướng đến mối lo ngại của Veronika cho lắm.

Veronika muốn tới Aldreil. Thành phố Lệnh Truyền Giáo đang dùng làm căn cứ. Hẳn có hơn hai trăm hiệp sĩ ở đó, cùng với những cỗ máy kinh khủng—tượng thánh bảo hộ, ít nhất là ba cái. Việc thách thức chúng một mình là bất khả thi. Ấy là một điều căn bản hơn việc vết thương của cô đóng hay mở miệng. Cho dù sức khỏe có hoàn toàn bình phục, Veronika vẫn sẽ bị giết.

Cơ mà…

“Tôi mệt mỏi,” cô nói, nhìn Berta, “về việc bỏ lại người khác.”

Vậy ra trước đây cô đã từng phải bỏ người khác lại. Veronika mang ánh nhìn xa xăm trong đôi mắt, như thể Aldreil có gì đó đặc biệt liên quan tới.

“Nhưng mà… Nhưng mà…” Berta không thể nói thành lời.

Cô không thể để Veronika đi. Nhưng cô chẳng có hy vọng gì thay đổi được ý định của người lính đánh thuê, đừng nói là ngăn cản bằng vũ lực. Cô chỉ là một cô gái nhỏ bất lực, chẳng hợp với gì hơn ngoài mấy việc lặt vặt. Nếu thông minh hơn, có lẽ cô đã có thể thuyết phục Veronika với một hai lời sáng suốt. Ý nghĩ ấy làm cô đau đơn.

Mình nên làm gì đây?

Trong lúc Berta còn bối rối—

“Berta, vết thương của Veronika thế nào rồi?”

Có tiếng gõ cửa, và một giọng nói. Ngay khi Berta vừa nhận ra đó là giọng nói của chủ nhân mình phụng sự, cậu đã vào mà không đợi trả lời.

Yukinari đứng giữa cửa. Xong đứng hình luôn ở đó.

Trong một khắc, Berta không rõ tại sao, nhưng rồi cô nhìn Veronika và hiểu. Veronika vẫn chưa mặc quần áo. Cô ấy có một miếng đồ lót duy nhất quấn quanh hông, nhưng thân trên và đùi thì không có lấy một mảnh vải. Đây là để lau mồ hôi khỏi người cô ấy.

Veronika có vẻ không lường trước việc đột nhiên chạm trán với Yukinari trong lúc khỏa thân; cô ngồi đó cạn lời, trợn mắt. Cô quá sốc đến mức còn chẳng thèm lấy tay che bộ ngực đầy đặn của mình lại.

“Éc! T-Tôi x-xin lỗi!” Hoảng loạn, Yukinari quay lưng lại với các cô gái. Berta nhận thấy rằng tai cậu đỏ bừng. Cậu đã dường như lãnh đạm khi Berta cố “phục vụ” cậu trong bồn tắm, nhưng giờ thì cậu rõ là bị kích động.

Berta thấy mình có chút ghen tị, có lẽ không phải điều mà tình huống lẽ ra mang đến. Phải chăng đây là sự quyến rũ của một người phụ nữ trưởng thành?

“Yuki?”

Dasa và Ulrike xuất hiện ở cửa vào. Họ hé nhìn vào phòng, trông thấy Veronika, cuối cùng cũng trở lại từ chín tầng mây và che mình lại.

“……… Yuki.”

Dasa nheo mắt sau cặp kính. Mặt khác… “Ồ! Cô gần hồi phục rồi kìa.”

Bởi lẽ cô gái còn lại là thân cận của một thổ thần gốc thực vật, cụ thể là một phần của vị thần đó, suy nghĩ của nhỏ không luôn ăn khớp với một người con gái bình thường. Hiện tại, mặc cho Veronika gần như khỏa thân và Yukinari mặt đỏ như gấc, dường như nhỏ lại để ý tới tình trạng thương tích của Veronika.

“U-Um, đây— Đây không phải— Ấy—” Berta vội vã bào chữa cho Yukinari, nhưng không thể nghĩ ra được điều gì để nói.

“Ngực cô ta ư?” Dasa hỏi, vẻ mặt tức giận.

Quả thực, Veronika rõ rang là đầy đặn hơn so với Dasa hoặc Ulrike. Những thớ cơ nằm ngay dưới bầu sữa chạy xuống tận lỗ rốn săn chắc đến mức như thể làm tôn lên khuôn ngực và đường nét.

Cả Yukinari, cũng bừng tỉnh lại và kêu lên, “Khoan đã! Không phải như vậy đâu! Chỉ là tai nạn thôi mà!”

“…Một điều đáng ao ước.”

Dasa không có vẻ lắng nghe Yukinari cho lắm, mà đặt một tay vào ngực mình. Theo như những gì Berta biết, Yukinari chưa bao giờ gần gũi với Dasa hơn là với mình. Có lẽ cậu chỉ thích những người phụ nữ trưởng thành hơn.

Nhưng ngực mình…

Ít ra, ở điểm đó, cô thấy mình không đến nỗi nào. Nhưng có lẽ vấn đề không chỉ nằm ở kích cỡ chỉ số.

Trong lúc Berta nghiền ngẫm điều này, Veronika buông tiếng thở dài. Cô nở một nụ cười gần như khô khốc, như thể có gì đó bên trong đã giãn ra. Có lẽ, trước những lời bông đùa dễ dãi của Yukinari và bạn cậu, sự quyết tâm anh hùng nhưng rút cục lại bi thảm trong tim cô đã phai đi mất.

Trông cô không còn như thể sắp chạy trốn nữa. Berta thì thở phào nhẹ nhõm.

Veronika gấp bộ đồ ngủ đi mượn và đặt nó trên đầu giường, rồi thay sang bộ đồ cô mặc để đi lại và chiến đấu. Cô không giật mình khi thấy bộ đồ dính máu đã được giặt giũ, mà bởi những chỗ rách nhỏ với những chỗ cô bị đâm đã được sửa một cách rất ấn tượng. Hẳn là Berta đã làm. Có nịnh hót thì cũng không thể gọi là khéo léo, nhưng rõ ràng là cô ấy có quan tâm. Giờ Veronika nghĩ lại, cô nhớ lúc Berta, không thể chịu được việc im lặng ngồi cạnh mình, đang làm việc khâu vá gì đó… “Um…”

“Con dao của tôi.” “…Phải rồi.”

Veronika chìa tay ra, và Berta ngoan ngoãn đưa cho cô một con dao ngắn. Có vẻ cô ấy vẫn chống lại ý tưởng Veronika tới Aldreil, song dường như không có ý định cố ngăn cản bằng những trò vặt vãnh như giấu quần áo hoặc không chịu đưa trang bị. Thực tế là cô ấy có vẻ không thoải mái với ý tưởng nắm giữ tài sản của người khác.

Cô ấy là một thiếu nữ tốt bụng, Veronika cho rằng. “Xin lỗi, cho tôi xin cốc nước được không?”

“Ồ, đ-được,” Berta gật đầu và rời khỏi phòng mang theo cái xô cùng với băng gạc đã qua sử dụng. Veronika có cảm giác rằng một khi mình sẵn sàng lên đường, Berta sẽ lại cố ngăn cản mình lần nữa—nên cô đành tạo ra một cái cớ để gạt cô ấy sang một bên.

Có phần ngạc nhiên, khi mở ngăn kéo tủ quần áo, cô tìm thấy tất cả trang bị và tài sản của mình ngoại trừ cây kích. Có lẽ họ không mong rằng cô sẽ cố bỏ chạy, hoặc cho rằng cô không đủ sức. Hoặc có lẽ là… Có lẽ chỉ đơn giản là họ tin cô. Xét thấy Berta, đây là điều có khả năng cao nhất.

Veronika không nói một lời rời khỏi phòng khác—song, vì lí do gì đó, một vài cảm xúc giằng xé, kêu gọi cô trở lại.

Cô đang hướng tới phòng tiếp tân. Cô chưa từng rời khỏi phòng trong lúc đang dưỡng sức, nhưng những kiểu tòa nhà này—các trang viên của lãnh chúa và chính quyền địa phương—thì tương đối giống nhau, nên không khó để cô đoán ra điểm đến của mình.

Dĩ nhiên, cô chưa hoàn toàn hồi phục. Nhưng đủ để cô có thể đi lại xunh quanh không vấn đề. Như Berta đã nói, chạy nhảy sẽ làm vết thương mở miệng, nhưng hiện giờ cô không thể lo về chuyện đó.

“…Thứ lỗi. Cho tôi ít phút được không?” cô hỏi khi vừa bước vào phòng tiếp tân.

Phía trong, Yukinari, Dasa, và Fiona, những người có vẻ là chủ nhân của trang viên này, đang thảo luận gì đó. Ba người họ nhìn Veronika. Fiona có vẻ ngạc nhiên khi thấy cô mặc đồ đi đường, nhưng Yukinari và Dasa thì mặt lại không đổi sắc. Họ không giật mình sao? Hay đơn giản là họ đã ngờ trước điều này sẽ xảy đến?

“Có điều mà tôi muốn nói,” Veronika nói.

“Ngồi xuống đi,” Fiona nói, ra hiệu về phía chiếc ghế trống bên cạnh mình. “Tôi cho là chuyện của cô không đơn giản. Cảm phiền đợi chúng tôi nói nốt vấn đề của chúng tôi được chứ?”

“Cứ tự nhiên,” Veronika nói, gật đầu, và ngồi xuống kế bên Fiona. “Ồ…” Yukinari lên tiếng, và có một quãng dài trước khi cậu nói tiếp, “Xin lỗi về, ừm, lúc trước.” Cậu ngượng ngùng gãi má.

“Tôi không để ý đâu. Nhưng lời xin lỗi được chấp nhận,” Veronika nói.

Lính đánh thuê là công việc của phái nam, và nó đã đưa cô đến khắp mọi nơi mọi chốn. Sẽ không thực tế lắm khi mà cô cứ liên tục yêu cầu một phòng riêng hay một tấm màn mỗi khi phải thay quần áo. Ngay cả vậy, các thuộc cấp của cô vẫn cứ khăng khăng đòi bằng được cho cô sự đối đãi đặc biệt. Cô biết ơn sự lưu tâm của họ, nhưng theo một cách khác, nó cũng khiến cô thổn thức. Bất kể thế nào, Veronika cũng không phải là một tay mơ đến mức phải lo lắng về những cái liếc tình cờ.

“Được rồi, Yukinari, tiếp tục đi,” Fiona nói.

“Được thôi. Như đã nói, tôi muốn làm cho đề xuất của Ulrike được thực hiện. Và thứ nữa… Xét đến xu hướng diễn tiến của mọi chuyện, có lẽ chúng ta cần một vũ khí có thể đối phó với kẻ địch ở tầm xa.”

Cậu chỉ tấm bản đồ trải trên bàn. Cùng với tấm bản đồ, có một dạng như là bản phác đơn giản gì đó. Đối với Veronika, trông nó giống một cái sung cao su. Nhưng có một người được vẽ bên cạnh—và xét đến tỉ lệ, chiếc súng cao su đủ lớn để làm một vũ khí phong tỏa. Chính xác thì ba người này đang suy tính điều gì?

“Tầm xa à? Chẳng phải súng của anh và Dasa dùng đã lo liệu chuyện đó rồi sao?”

“Tôi nghĩ là có lẽ cô đang hiểu sai,” Yukinari cau mày. “Súng không phải là những vũ khí toàn năng với tầm bắn vô hạn. Chúng có thể bắn xa hơn cung tên, phải, nhưng sức mạnh của chúng suy giảm đáng kể qua một khoảng cách nhất định, và trên hết độ chính xác sụt giảm cho đến khi không thể trúng được gì nữa.” Yukinari hất hàm về phía cây kiếm—mà không, vũ khí dạng kiếm—dựng bên cạnh ghế.

Veronika nheo mắt nhìn nó. Súng có vẻ là cái tên vũ khí đó được gọi.

Nó cực kì mạnh. Cái của Dasa đoán chừng là cùng một loại. Thứ vũ khí đã rống lên và đánh bật kiếm ra khỏi tay Veronika—và khi nhìn thanh kiếm hồi trước, lúc đang thay đồ, cô thấy phần giữa của nó gần như bị gãy.

Thừa nhận rằng, nó là một thanh kiếm tương đối rẻ mạt, nhưng lẽ ra không nên dễ bị phá hủy như thế. Cô đã dùng nó trong giao tranh nhiều lần rồi. Điều đó tức một phát từ “khẩu súng” mạnh mẽ hơn nhiều so với nhát chém của kiếm sĩ.

Nó có vẻ là một vũ khí tầm xa, nhưng có tính di động hơn cung hoặc nỏ và có thể được sử dụng trong lúc cắt bằng phần kiếm của vũ khí. Nếu cô có một thứ như vậy, thì sẽ rất hữu ích trong việc giải cứu các đồng đội—thuộc cấp.

“Đúng vậy,” Fiona đang nói. “Những người có mượn Durandall của anh báo cáo rằng rất khó để bắn trúng các mục tiêu nhỏ…”

“Phải. Thế nên ta cố ý hi sinh đi một chút tính di động để đổi lấy độ chính xác cao hơn ở khoảng cách xa hơn. Cho nó một cái nòng dài, dày để cải thiện độ chính xác, nạp nhiều thuốc súng để đạn đi được xa, và rồi lắp ống ngắm cho nó—ờ, cứ nghĩ như kiểu kính viễn vọng ấy. Đó là một khẩu súng bắn tỉa.”

Veronika lặng lẽ nhướn mày. Rõ ràng là, họ đang nói về vũ khí, nhưng số lượng từ chưa từng nghe khiến cho cô khó lòng mà theo kịp. Có lẽ chàng trai này, Yukinari, là một chuyên gia vũ khí. Ở biên giới, bắt gặp những vũ khí kì lạ được phát triển đơn lập là chuyện bình thường. Xét đến việc thứ này đã làm gãy kiếm của cô, nó sở hữu một lượng sức mạnh khác thường để một cá nhân có thể gánh vác. Chưa kể, vào những tình huống thích hợp, có khi nó có thể xoay chuyển thế cục trận chiến.

Vậy mà có vẻ Yukinari còn đang bảo rằng đến cả “khẩu súng” này còn chưa đủ.

Cậu đang tính làm một thứ còn mạnh hơn nữa. “Thế anh muốn lời khuyên của tôi về điều gì?” Fiona hỏi.

“Súng trường thiên về độ chính xác hơn bất cứ thứ gì. Vậy nên, dĩ nhiên là, ta cần vài phát bắn thử vừa để xác nhận độ chính xác vừa để cho xạ thủ—người dùng súng—có thể thạo hơn. Tôi tự hỏi liệu cô có nghĩ được chỗ nào tốt cho kiểu tập luyện đó không. Tôi không thích ra mấy ngọn núi rồi vô tình bắn nhầm người qua đường gì đó kiểu vậy.”

“Anh đang nghĩ tới một nơi như thế nào?”

“Một nơi có khoảng cách mà ngay cả cung tên cũng không thể bao quát, không có chướng ngại vật giữa người bắn và mục tiêu. Một nơi người ta thường không đến. Chúng ta không thể dùng chỗ nào trong thị trấn được, nên phải là ở ngoài.”

“Thế còn bục quan sát từng dùng cho các vật tế cho thổ thần thì sao?” Fiona đề xuất. “Khoảng cách của nó khá tốt tính từ thánh địa. Và vì nó được dùng để quan sát quá trình nghi lễ, nên không có gì giữa nó và mục tiêu cả.”

“Ừm, ra vậy. Tôi chưa nghĩ tới cái đó.” Yukinari gật đầu, giọng có nét ngưỡng mộ. “Và người đa phần là tránh khỏi thánh địa. Miễn cẩn thận thì sẽ ổn thôi.”

“Phải. Nếu vẫn còn chưa thoải mái, chúng ta có thể hẹn những ngày và giờ cụ thể rồi bảo người dân thị trấn tránh xa trong những khoảng thời gian đó.”

“Ý hay đấy. Làm thế đi.” Yukinari nghe có vẻ hài lòng.

Điều này khiến cho Veronika nhìn lại “súng” của Yukinari. Vũ khí này có đủ sức mạnh để đơn phương tấn công kẻ địch từ một khoảng cách, thậm chí làm hỏng cả kiếm. Hẳn nó có thể dễ dàng xuyên thủng giáp sắt. Không thắc mắc gì nữa: nếu cô đem một cái tới Aldreil, cơ hội giải cứu bạn của cô sẽ tăng lên đáng kể.

Liệu có cách nào để cô có được một vũ khí như vậy không? Tước đoạt bằng vũ lực là một lựa chọn, nhưng cô đúng là có nợ những người này, và bản thân việc trộm cắp cũng có cái khó của nó. Chẳng hạn, cô không biết cách dùng súng. Điều đó đồng nghĩa với việc cách nhanh và an toàn nhất là thương lượng. Sau đó họ có thể dạy cô cách sử dụng.

“U-Um!” Trong lúc Veronika suy nghĩ về điều này, Berta vội vã lao vào phòng khách, có vẻ bối rối vì điều gì đó.

“Thứ lỗi cho việc gián đoạn, nhưng tôi không thể tìm thấy Cô Veroni—”

Cô dừng lời khi thấy Veronika đang ngồi trong phòng. Cô hắt ra một tiếng thở dài và ngồi bệt luôn xuống đất. Chắc hẳn cô đã hoảng hốt khi mang nước trở lại chỉ để thấy rằng Veronika không còn trong phòng nữa.

“Điên đảo vì vụ gì vậy?” Yukinari hỏi.

Berta đáp mà không đứng dậy, “Em— Ngài— Chúa Tể Yukinari! Cô Fiona! Hai người phải ngăn Cô Veronika lại! Vết thương của cô ấy còn chưa lành hẳn, vậy mà lại muốn rời Friedland để trở lại Aldreil… Cô ấy nói muốn giúp bạn mình!”

“Ra vậy,” Yukinari nói, nhìn Veronika. “Tôi ghét phải nói điều này, cơ mà không thể đâu. Berta đúng đấy. Tôi đồng cảm với việc cô muốn cứu bạn, nhưng ở Aldreil có đến hai ba đơn vị Lệnh Truyền Giáo. Một mình cô chẳng là gì với chúng đâu. Sẽ chỉ như con thiêu thân lao vào đốm lửa mà thôi.”

Thiêu thân lao vào đốm lửa. Yukinari không nghĩ nhiều lắm về điều cậu vừa nói, song lời của cậu trúng vào tim đen của Veronika.

“Cô đã ở đây, sao nhở, bốn năm ngày rồi đúng không? Nếu Lệnh Truyền Giáo định hành quyết bạn của cô, hẳn là giờ chúng đã xong rồi. Còn không, chúng sẽ để đồng đội của cô sống. Chẳng có lí do gì mà phải đi ngay cả. Đúng không nào?”

“Thì…” Veronika không biết nói gì cả. Logic của Yukinari rất hợp lí. Nếu đám truyền giáo định đấy các bạn cô tới cái chết, thì hẳn chúng đã thi hành án tử rồi, và nếu không, thì chẳng có lí do gì mà mọi người không thể sống sót thêm một lúc nữa. Lệnh Truyền Giáo của Giáo Hội Chân Chính Harris và Veronika biết rất tàn nhẫn, nhưng không cục súc. Hay đúng hơn là, chúng có một sự tôn trọng rõ ràng với nguyên tắc. Chúng thậm chí sẽ sát hại phụ nữ và trẻ nhỏ nếu cho là cần thiết, nhưng sẽ không giết tù nhân mà không có lí do.

Nếu định chiến đấu, cô nên chắc rằng mình có được càng nhiều lợi thế càng tốt. Và điều đó tức là…

“Tôi hiểu rồi. Có vẻ là tôi sẽ phải gây ấn tượng với các người thêm một lúc nữa.”

Trông Yukinari có hơi ngơ ngẩn. Cậu đã cho Veronika ý kiến của mình, như Berta yêu cầu, song không mong đợi cô ta bằng lòng dễ dàng như thế. Trên thực tế, nếu súng không tồn tại, có lẽ Veronika sẽ tới Aldreil mặc cho logic của Yukinari có đúng tới mức nào.

“Nhưng khi tôi còn ở đây,” Veronika nói, “đã phiền thì phiền cho chót, tôi có một đề nghị.”

“Đề nghị?”

“Hãy cho tôi mượn ‘súng’ của các người. Nếu được thì cả cái ‘súng-bắn-tỉa’ mấy người đang thảo luận lúc nãy nữa.”

Nếu như có một khẩu súng mạnh hơn với tầm bắn xa hơn, thì bằng mọi cách, cô muốn có một cái.

Veronika không phải đang đề nghị mua khẩu súng. Cô thực sự đang yêu cầu họ cứ thế đưa cho mình. Cô hiểu rằng ấy là một cú vượt rào dữ dội và hoàn toàn sẵn sàng để bị từ chối. Cơ mà…

“Được thôi,” Yukinari gật đầu, khiến cô ngạc nhiên ra mặt.

Angela và các nhà truyền giáo khác đang dùng dinh thự của thị trưởng Aldreil làm văn phòng hành chính của mình. Những người sống trong nhà trước đó, bao gồm cả thị trưởng, đã bị đuổi ra một căn nhà riêng biệt khác để Lệnh có thể cắm rễ trong tòa nhà to nhất ở thị trấn.

Nhằm bảo vệ thông tin phân loại của đội ngũ, không một cư dân thị trần nào được phép vào trong, thậm chí cả thị trưởng. Nói chung là, đó là lí do được công bố, còn thực tế Angel đã tiến cử phương pháp này lên chỉ huy để ngăn không cho bóng dáng xấu xí của lũ bợ đít bén mảng.

Tòa nhà chủ yếu được làm bằng đá, một kiến trúc vững chãi xứng đáng với người đứng đầu của một thị trấn chuyên về giao thương. Hình ảnh lại hợp với đám hiệp sĩ truyền giáo; cảnh tượng họ đi ra đi vào cho nó không khí trang nghiêm của một lâu đài.

Phòng làm việc của thị trưởng trở thành văn phòng của chỉ huy. Phòng tiếp tân trở thành phòng họp để các chỉ huy và phó chỉ huy của từng đơn vị gặp mặt. Tính chất của cả căn nhà thay đổi đơn thuần dưa trên những người ở của nó.

Angela hài lòng vì đã đưa ra một đề xuất tốt. “Báo cáo, thưa cô!”

Một nhà truyền giáo tiếp cận văn phòng nơi Angel đang đợi. Hiện tại, Chỉ huy Bateson đang hồi phục trong phòng ngủ cũ của thị trưởng, nên là phó chỉ huy, Angela chịu trách nhiệm cho Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín. Cô vinh dự được đảm nhiệm vị trí này, nhưng nhu cầu thường trực phải đưa ra chỉ dẫn đồng nghĩa với việc cô cứ phải đợi mãi trong văn phòng.

Cô muốn ra đi tuần trở lại, nhưng các hiệp sĩ khác lại ngăn cản, thành ra cô đành ngồi đây. Điều này một phần là vì cô có quá nhiều khách, nhưng đồng thời. nhiều sự đang căng thẳng sau vụ thích khách của Bateson.

“Về đám lính đánh thuê,” hiệp sĩ nói. “Có vẻ là một tên đã trốn thoát, nhưng chỉ một thôi.”

“Lính đánh thuê? À… phải…” Cô cau mày một lát trước khi sực nhớ.

Không lâu sau khi Angel và Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ chín tới Aldreil, họ đã tóm được một nhà buôn cùng hộ vệ được thuê của hắn đang làm thương vụ mà không có sự phép của kinh đô hay sự chấp thuận của Giáo Hội Harris. Hiện chúng đang bị nhốt trong tầng hầm của trang viên này, trước là một khu vực lưu trữ. Các hiệp sĩ vốn đang tiến hành tra khảo.

“Một tên trốn thoát? Trong tình thế như vậy sao?” Angel lẩm bẩm, lại nhăn mặt. “Chẳng biết là may mắn, hay hèn nhát nữa.”

Một lúc cô nghĩ rằng có lẽ tên lính đánh thuê này đơn giản là bỏ mặc những người người còn lại và chạy trốn. Nhưng thông tin xuất hiện có hơi trễ để cho là một tên đồng đội thất tín. Nếu mà mãi tới lúc này chuyện mới lộ ra, thì tức là những kẻ kia vốn đang chịu đựng cuộc tra khảo nhằm bao che cho kẻ chạy.

“Hắn không thể lành lặn,” hiệp sĩ nói.

“Thế mà vẫn thoát được thì ấn tượng đấy,” Angela nói. “Thực là xứng ca ngợi. Nhưng ta cho là hắn đã trở thành mồi cho thú hoang từ lâu trước khi tới được chỗ người ở rồi.”

“Một khả năng rõ ràng, thưa cô,” hiệp sĩ đáp, vẫn đứng nghiêm chỉnh.

“Mà, ta tự hỏi. Ngươi đã từng biết một tên lính đánh thuê—những sinh vật ghê tởm—nào lại đi chịu đựng sự tra khảo chỉ để bao che cho một người chưa? Tên thuê chúng thì còn hiểu được, nhưng đám lính đánh thuê thì thường cho nhau là vật thế mạng. Thế mà đây, cả nhóm bọn chúng lại hiệp lực để một trong số chúng trốn thoát.”

Nói cách khác, có lẽ chúng chỉ trông giống lính đánh thuê mà thôi.

Nếu tên này chỉ là tàn dư của một nhóm côn đồ đánh thuê bại trận, thì chẳng cần phải đuổi theo làm gì. Mà nếu không…

“Thú vị đấy. Truy đuổi hắn đi. Ta nghĩ năm sáu hiệp sĩ chắc là đủ để tìm một người. Á thần và ngoại thú quanh đây đã bị xử lí hết rồi. Huy động cả đơn vị thì nhiều quá. Ngươi chọn người đi. Chuẩn bị ngựa và vũ khí. Đích thân ta sẽ dẫn đầu.”

“Đích thân ư, thưa Phó Chỉ huy?”

“Phải. Dĩ nhiên, có lẽ hắn đã chết rồi, nhưng ta nên ở đó để dám chắc. Lữ Đoàn Thứ Chín khó lòng mà khởi hành tới đích đến tiếp theo trong khi chỉ huy còn đang hồi phục. Ta sẽ không đến mức gọi đây là giết thời gian đâu, cơ mà cứ cho nó là một cách giúp ta gạt đi mối băn khoăn về tương lai cũng được.”

Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín vốn định nạp lại quân lương tại Aldreil, rồi tiếp tục thành Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa tiến xa hơn vào biên giới. Song trước sự chấn thương không thể lường trước của vị chỉ huy, họ đành dậm chân tại chỗ. Lí tưởng nhất, lại nói, ấy là Angela ở yên trong văn phòng này thay cho chỉ huy của họ. Nhưng, lại nói, cô đang bắt đầu phát bệnh vì nó.

“Giờ thì, về câu hỏi hắn có thể đã đi đâu…”

Trong đầu cô có một tấm bản đồ sơ qua về khu vực. Những nơi tương đối gần—trong khoảng ba bốn ngày đường—bao gồm Maysford, Friedland, và có lẽ là Enlendila.

“Nghĩ lại thì, chẳng phải Lữ Đoàn Thứ Sáu đã được phái tới Friedland hay sao?” cô lẩm bẩm. Cô hình dung ra một người cũng gia nhập Lệnh cùng lúc với mình: Arlen Lansdowne.

Sự thật là, Yukinari không biết nhiều lắm về mọi loại súng. Ở thế giới trước, cậu từng sở hữu các mẫu Winchester M92 và Sturm Ruger Super Blackhawk, những vũ khí đã làm nên nền tảng cho Durandall và Ớt Đỏ, theo thứ tự. Cậu đã tháo ra lắp lại chúng quá nhiều lần tới mức thuộc lòng từng bộ phận.

Hai khẩu súng này—một súng cacbin lever-action và một súng lục ổ quay single-action—đều là những kết cấu khá đơn giản, với tương đối ít bộ phận. Dạng cơ bản của cả hai được công bố vào thế kỉ mười chín, nên không đòi hỏi sự chế tạo chính xác từng mili-mét như vũ khí hiện đại. Đó là lí do tại sao Yukinari có thể tạo ra những bản sao hoạt động chỉ sau vài lần thử và vẽ lại từ chính kí ức của mình.

Nhưng cậu chưa từng sở hữu một mẫu súng bắn tỉa.

Cậu có kiến thức rộng rãi, nhưng không biết chính xác thứ gì được đặt vào cấu trúc của một khẩu súng như vậy. Cậu từng nhìn qua thiết kế trong tạp chí một lần, nhưng thế thì chẳng thể đủ để tạo ra cả một vũ khí từ con số không.

Điều đó đồng nghĩa với việc lựa chọn duy nhất là sửa lại các khẩu súng cậu biết cho hợp với việc bắn tỉa.

Súng lever-action và lục ổ quay không thực sự hợp với việc bắn ngắm. Cabin lever-action được chế tạo để tương thích với ổ đạn hình trụ, với những đạn được nạp theo chiều ngang. Điều đó khiến nó không thể nạp những viên đạn đầu nhọn vào đường rãnh xoắn cho việc bắn chuẩn—nếu cứ bất cẩn mà cố thử, chúng có thể sẽ nổ trong khoang. Còn với lục ổ quay, ổ đạn vượt ra khỏi khoang, nên có những giới hạn tuyệt đối về độ chính xác khả thi và vẫn quay được.

Và đây là những khẩu súng Yukinari từng có mẫu. Còn nói đến những cái khác thì…

“Mà, hy vọng là được,” cậu lẩm bẩm, đứng trên bục quan sát. Trong tay cậu là một khẩu súng ngắm nguyên mẫu tự chế. Nó hoàn toàn khác biệt so với điều hầu hết người ở thế giới trước của Yukinari liên tưởng đến khi họ nghe từ “súng ngắm”. Dĩ nhiên, nó có nòng dài, nhưng dạng máy móc và chức năng thì khác.

Trước tiên, có hai nòng xếp cạnh nhau.

“Hẳn là lục đerringgiơ và súng ngắm thì trái ngược hẳn nhau rồi.”

Xét về hình dạng thì súng, về bản chất, được chia thành hai phần: trên và dưới. Một viên đạn được nạp vào mỗi phần, và dùng một cái bánh cóc, đạn trên và dưới có thể được bắn lần lượt, cho phép bắn hai phát giữa những lần nạp đạn. Sau đó, vỏ đạn rỗng sẽ được thay ra và nạp cái mới vào.

Mẫu thiết kế của cậu dựa trên Remington Double Derringer, một loại lục nhỏ thường giấu trong giày hoặc túi quần áo. Mẫu súng đó, cậu từng sở hữu. Ấy là một thiết kế cực kì đơn giản, và do đó cậu có tự tin với nó; bởi lẽ nòng và ổ là những mảnh riêng biệt, nên tương đối dễ dàng để làm với độ chính xác cao.

Lí do cậu không làm nó thành vũ khí bắn phát một là bởi hy vọng rằng nếu tay súng trượt phát đầu, việc có thể bắn ngay một viên khác có khi lại cho phép họ bắn trúng thứ đang nhắm. Một vài khẩu súng sắn cũng chia ra trên và dưới kiểu này, nhưng theo những gì Yukinari biết, không hề tồn tại một khẩu súng ngắm nào tương tự. Sự tồn tại của cơ cấu bolt-action (bolt = bu-lông) hẳn đã khiến nó thành ra không cần thiết.

Cậu ban cho khẩu súng cái tên Derrringger.

Người đã phát minh ra súng lục đerringgiơ, trên thực tế, tên là Dernger, với một chữ r. Nhiều người tạo ra những vũ khí tương tự gọi chúng là đerringgiơ, thêm một chữ r để tránh vấn đề thương hiệu. Bởi lẽ Yukinari đã mượn thiết kế đó cho khẩu súng này, cậu quyết định thêm một chữ r nữa.

Nay cậu đứng trong yên lặng. Dasa phía sau cậu, cũng như Veronika, người đã tỏ ra rất hứng thú với súng trường. Cả Berta cũng ở đó. Ban đầu Ulrike cũng đề nghĩ được theo cùng, song cậu có một công việc khác cho nhỏ.

Bục quan sát, như đã xác minh, vốn để cho mục đích quan sát nghi lễ với thổ thần. Chẳng ai sống quanh đây, và nó mới chỉ được dùng vài năm một lần. Chỗ này có dựng một cái lều nhỏ, nhưng chỉ vừa đủ tránh mưa nắng, mang lại cho cái bục dáng vẻ của một cái chòi canh nghèo nàn.

“Được rồi, triển thôi.” Yukinari chống Derrringer lên ụ đất cậu vừa xếp. Đây chỉ là một nguyên mẫu, nên cậu chưa làm giá hai chân. Cậu phải tì khẩu súng vào thứ gì đó thế này để giữ nó đủ vững để bắn.

Yukinari quỳ một bên gối và đặt mắt vào ống ngắm. Mọi thứ đã sẵn sàng. Khu vực xung quanh thánh địa trông ổn. Cậu có thể thấy Ulrike, ở ngay chỗ họ đã thảo luận. Gần thánh địa là một khu vực thoáng đãng như quảng trưởng công cộng. Ulrike đang hí mắt ra từ một lùm cây ngay kế bên.

Một thứ kì lạ đứng trong quảng trưởng, dáng hình thô kệch của một người khổng lồ. Nó là một khúc cây, được cành che phủ cho đến khi mang lại hình dạng phù hợp. Việc của Ulrike là tạo ra và duy trì mục tiêu này, cũng như xác nhận khi nó bị bắn trúng. Đây là lí do tại sao nhỏ không lên bục quan sát với mấy người con lại.

“Dasa, ra hiệu đi.”

“…Mn.” Cô nàng bắn Ớt Đỏ một phát lên không trung.

Đây là tín hiệu bắt đầu. Tiếng Ớt Đỏ cảnh báo cho Ulrike giữ mấy cái cây. Hai phát liền là đang tạm nghỉ.

Lặng lẽ, Yukinari đảo mắt quanh chữ thập bị trầy xước ở bên trong ống ngắm và căn nó thẳng hàng với con búp bê. Cậu nín thở—và bắn phát đầu.

Đoàng.

Tiếng ồn vang vọng, to hơn một mức so với Ớt Đỏ. Durandall và Ớt Đỏ dùng đạn .44 Magnum, loại đạn mạnh mẽ cho súng ngắn, nhưng đơn giản là chúng không có nhiều thuốc súng như đạn dùng trong súng trường.

Cơ mà…

“Trượt rồi,” Yukinari nói thầm. Đến cả Yukinari cũng không thể dõi theo một viên đạn đi nhanh hơn vận tốc âm thanh bằng mắt thường của mình, nhưng cậu thấy một đám bụi bốc lên ở bên phải mục tiêu.

“Hừm,” cậu càu nhàu. Cậu không chỉ trượt một vùng nhỏ cụ thể, như đầu hoặc tim; mà đã chẳng trúng nổi chỗ nào trên cái hình người đó cả.

Phát thứ hai—lại trượt.

Vì thấy thích, cậu bèn nhắm lại chỗ vừa nãy, song viên đạn lại chệch sang bên phải. Cùng một chỗ với phát bắn vừa rồi, tức là bản thân khẩu sung đang đưa đạn đi một cách chính xác.

Còn phải xét đến ảnh hưởng của gió và độ ẩm. Song nếu không thể bắn trúng thứ gì, thì vũ khí là vô dụng. Cậu sẽ phải bắn cả loạt đạn, cải thiện cách nhắm của mình, trau dồi kinh nghiệm đọc gió cùng với bất cứ yếu tố nào liên quan.

“Muốn thử không, Dasa?” Cậu nhìn lại phía cộng sự của mình, vốn đang kiên nhẫn quan sát. Cô nàng không thể tham gia cùng cậu ở tiền tuyến, điều khiến cho súng trường càng trở nên quan trọng với cô. “Báo trước với em, là không dễ đâu đấy.”

“Cứ xem… đi.” Cô thoáng nở một nụ cười biết tỏng trên mặt. Mặc dù đối với mọi người ngoại trừ Yukinari, hẳn trông cô nàng vẫn vô cảm như mọi khi.

Cái bệ Yukinari dựng lên có hơi cao đối với Dasa, nên cô ngồi xuống một cái ghế gần đó để điều khiển súng. Cô thử vài tư thế khác nhau trước khi tìm ra cái mình thích. Thỏa mãn, cô nhìn qua ống ngắm, lựa góc bắn, và kéo cò.

Phát đầu tiên.

Yukinari rút ra một ống ngắm dự phòng và nhìn qua nó để xem đạn đi đâu. Hình nhân vẫn còn nguyên vẹn. Có vẻ là, cô đã trượt.

Ở cự lí gần, Dasa có thể bắn trúng kiếm của Veronika với một cú rút súng nhanh, nhưng ngay cả cô còn thấy bắn ngắm tầm xa là một chuyện khác. Cũng hợp lí thôi.

Cô ngắm. Phát thứ hai. Cũng trượt. “…Hừm.”

Dasa kéo đòn bẩy để thả chặn, vừa hướng súng xuống vừa mở báng ra, thay ra đạn đã bắn và cài vào những viên mới. Cô đóng báng và chuẩn bị bắn Derrringer thêm một lần nữa.

“Mn……”

Cô nhăn mày sau cặp kính. Khẩu súng, có lẽ, hơi khó khăn chút để cô xử lí. Đây chính xác là lí do tại sao những khẩu súng ngắm có báng súng rời theo chiều dọc không tồn tại ở thế giới trước của Yukinari. Để mở báng, tức là mở xuống dưới, làm rỗng khoang và nạp đạn mới, thì cần thiết phải rời một mắt ra khỏi ống ngắm. Điều này về cơ bản cũng liên quan đến một động tác của chính khẩu súng, tức là góc nhắm sẽ bị lệch đi đáng kể. Do đó, để bắn tiếp thì mỗi lần người ta phải quay lại ống nhắm và nhắm lại từ đầu.

Một cái giá hai chân có thể được gắn vào để cố định nó, như với Ớt Đỏ, nhưng thế thì lại gây khó cho việc nạp và tháo khoang. Lí do mà sự sắp đặt hai nòng theo chiều dọc như thế này, cũng các thiết bị lever-action như Durandall, không được sử dụng cho súng ngắm là bởi việc thao tác chúng đòi hỏi một khoảng trống bên dưới súng, khiến cho chúng không hợp với việc đặt trên giá hai chân.

Khi Dasa mở báng súng ra để nạp và thay, cô đã cố hết sức để ngăn nòng di chuyển quá nhiều—nhưng đã quen với việc sử dụng Ớt Đỏ, dĩ nhiên cô thấy khó chịu khi phải làm điều này. Khẩu súng ngắn của cô là một cấu trúc hoàn toàn khác, nhưng cô đã ở bên Yukinari suốt lúc cậu làm Derrringer, nên đã có ý tưởng về cách nó hoạt động. Vậy mà…

Phát thứ ba trượt thì cô chẳng nói gì nữa.

“Hừm. Chắc là khó ra phết đấy.” Yukinari nghĩ hôm nay có cảm nhận sơ qua về vũ khí vậy là được rồi. Cậu bước một bước đến chỗ Dasa, định hỏi xem cô nghĩ thế nào, nhưng cô nàng lại bắn. Và trượt.

Nhả. Nạp. Bắn—Trượt.

Bắn ngay một viên khác—Trượt. Nhả.

Nạp. Bắn—Trượt.

Bắn ngay một viên khác—Trượt. “Ơ-Ờm, Dasa…?”

Cô như một cái máy bị hỏng, lặp đi lặp lại cùng một hành động. Và cô hoàn toàn lặng thinh. Vốn dĩ cô nàng đã lầm lì, nhưng hiện thì nhiệt như thể đang bốc ra. Có chút đáng sợ.

“Nó… kh…ó hơn em tưởng.”

Cuối cùng, sau khi bắn gần ba mươi viên, cô mới chịu bước ra khỏi vũ khí. Biểu hiện của cô có lẽ là thất vọng hơn ba mươi phần trăm so với bình thường. Một điều mà, lại nói, chỉ mình Yukinari hiểu được.

Dường như cô đang giận. Bắn nhiều như vậy mà chẳng trúng viên nào hẳn là bực phết. Cô vốn là người nghiêm túc; khi không thể làm điều mình định làm, cô trở nên bực bội. Và nhắm bắn là một điều cô đã học sau khi có được thị lực của mình. Đó là bằng chứng cho việc cô có thể thấy. và là một kĩ năng đặc biệt của riêng mình. Theo cách hiểu của bản thân, đối với cô việc trở thành tay súng ngắm lão luyện là một điều quan trọng.

“Mà, nó là nguyên mẫu thôi,” Yukinari nói, hy vọng xoa dịu được cô nàng. Cậu nhớ có điều mình từng đọc trong sách ở thế giới trước: một xạ thủ giỏi không bao giờ bắn trượt phát đầu tiên.

Song, cuốn sách có tiếp, với con người chẳng có thứ gì gọi là không bao giờ cả. Vậy nên nếu trượt phát đầu tiên, ta phải cố trúng viên thứ hai trước khi mục tiêu lẩn mất. Nếu như mục tiêu đang giữ con tin ở đâu đó, phát bắn vụng đầu tiên thậm chí có thể khiến mục tiêu giết con tin, nên việc có thể thành công ngay phát bắn thứ hai là tối quan trọng.

Bất luận thế nào, những người bị lung lay khi bắn trượt hoặc để nó khiến họ có tâm trạng xấu thì không hợp với việc bắn tỉa. Dĩ nhiên, nếu cậu chỉ ra điều này, thì sẽ chỉ càng khiến Dasa giận hơn, nên cậu giữ mồm giữ miệng.

“Tôi thử được không?” Veronika, nãy giờ vẫn đứng lặng lẽ, lên tiếng. Vì có vẻ hứng thú với vũ khí, hẳn vốn dĩ cô đang chờ đến khi Yukinari và Dasa thử xong.

“Được, không phiền đâu,” Yukinari, và đưa Derrringer cho cô. “Làm thế nào để…?”

Cô chưa từng bắn súng. Cậu bèn giải thích vắn tắt. Tuy nhiên, Veronika đã đang xem hai người họ bắn thử, nên chỉ cần một vài chi tiết là hiểu được cách nó hoạt động. Đầu tiên cô nạp, kích búa, rồi bắn và nhả đạn—đúng hơn là, giả vờ, làm mọi thao tác mà không có đạn, nhưng không có vấn đề gì cả.

Cô là một người tiếp thu nhanh. Cơ mà… “…Hừm.”

Cô vẫn trượt.

Cô bắn lần thứ hai, rồi nạp đạn, bắn phát thứ ba và bốn. Cuối cùng cô bắn mười lần, nhưng không viên nào trúng đích.

“Mà nghĩ lại, tôi còn khá giỏi bắn cung đấy chứ,” cô nhăn mày thất vọng nói.

Veronika rất tự tin vào khả năng võ thuật của mình, và việc không trúng mục tiêu dù chỉ một lần khiến cô phiền não, mặc dù không bằng Dasa. Cơ mà, cung và súng hoàn toàn khác biệt, nên Yukinari không thấy điều này đặc biệt kì lạ cho lắm.

Sau cùng, giữa ba người họ, không một phát bắn nào trúng đích. Không khuyến khích cho lắm.

Tuy nhiên, trong tổng cộng năm mươi phát, không có phát nào bị xịt; có vẻ là bản thân khẩu súng hoạt động trôi chảy. Sự vận hành thực sự của thiết bị còn hơn cả mĩ mãn. Độ văng của đạn còn chẳng lớn. Điều đó dường như cho thấy rằng vấn đề nằm ở mức độ thông thạo và tương thích của người bắn hơn là độ chính xác.

“Chắc là có công mài sắt có ngày nên kim, nhỉ…?” Yukinari lẩm bẩm, chuẩn bị gói ghém.

“Cô muốn thử không?”

Veronika là người nói, và đang chìa Derrringer ra cho Berta giật nảy mình.

“Ha?! T-Tôi á?!”

Rõ ràng là cô ấy không mong đợi bị rơi vào tình huống này theo cách nào cả. “U-Um, Chúa Tể Yukinari?!” Cô nhìn cậu vẻ cầu cứu.

“Mà, chúng ta vẫn còn ở đây, sao lại không nhỉ?” Yukinari mỉm cười nói.

Họ chỉ còn lại vài viên đạn. Tiết kiệm chúng cũng chẳng để làm gì. Nếu hết, Yukinari có thể đơn giản là tạo thêm bằng sức mạnh của mình.

“N-Nếu ngài bảo vậy, C-Chúa Tể Yukinari…” Đoạn, Berta ngập ngừng nhận khẩu súng từ Veronika. Cô hơi loạng choạng; có lẽ nó nặng hơn cô tưởng. Yukinari đỡ lấy vai cô ấy.

“Em ổn chứ?”

“Dạ, vâng, em… em sẽ xoay sở. C-Cảm ơn.” Mặt cô đỏ bừng. Cậu đặt cô, như Dasa, trên chiếc ghế, và cho cô hướng dẫn đơn giản về cách bắn. Chuyển động của cô, dĩ nhiên, chần chừ hơn nhiều so với Dasa.

“Được, thử đi,” Yukinari nói, rồi chờ đợi.

Sự thật là, Yukinari rất hứng thú với việc nhìn Berta bắn, tuy không cùng lí do với những người còn lại. Bản thân cậu thường xông pha chiến trận, nên hiển nhiên cậu sẽ để việc bắn tỉa lại cho người khác. Cậu đã cân nhắc việc tuyển mộ một đồng chí của Arlen cho vị trí, nhưng không tự tin rằng có thể trông cậu sự giúp đỡ của họ khi chiến đấu chống lại các nhà truyền giáo khác. Ở một thời điểm nào đó, thậm chí có khi cậu phải tịch thu lại mấy khẩu Durandall của họ.

Thế thì cậu có thể biến một cư dân thị trấn thành xạ thủ. Trong trường hợp đó, cậu sẽ không lựa chọn một người như Dasa, người vốn đã biệt cách sử dụng súng, hay thậm chí một người như Veronika, người lão luyện trong chiến trận. Nếu để Berta, với không hề một chút kinh nghiệm nào về vũ khí nào, thử bắn, thì có khi sẽ cho cậu vài ý tưởng về cách khiến súng ngắm dễ sử dụng hơn với “những tay mơ” như cô ấy.

Nói chung là, đó là điều cậu mong đợi. Cho tới khi đoàng.

“Tốt, em bắn được rồi. Giờ thì, trước hết—”

Cậu đang định hỏi xem cô thấy thế nào, khi lần đầu tiên trong đời sử dụng súng.

Nhưng Berta chớp mắt và nói, “Em… em trúng rồi.”

“Sao cơ?” Giật mình, Yukinari vớ lấy ống ngắm và nhìn về phía thánh địa.

Có một cái lỗ trên đầu con búp bê.

“Tôi không t…in,” Dasa nói. Cô nàng đang nhìn qua ống ngắm trên Ớt Đỏ để thấy điều vừa xảy ra. Cô khẽ phát ra tiếng ken két, có lẽ là do ảnh hưởng của việc chứng kiến phát bắn thành công của Berta.

“Um, Em— Um—” Berta đang lo lắng nhìn Yukinari và Dasa. Cô đang bắt đầu lo ngại rằng mình đã làm gì sai trái.

“Berta,” Yukinari nói, không tin vào mắt mình, “Làm lại lần nữa. Cứ thử đi.”

“Ha? Ùm, được thôi. N-Ngay ư…?” Cô đặt mắt lại ống ngắm của Derrringer.

Rồi cô bắn.

Lần này có vẻ là cô đã trượt. Có lẽ phát đầu tiên là ăn may, hoặc có lẽ phát thứ hai bị lệch do sự ngạc nhiên của cô trước phản ứng của Yukinari.

“Ồ, trượt rồi,” Berta nói, thực ra nghe lại có vẻ nhẹ nhõm. Chẳng hề có sự tiếc nuối mà Dasa thể hiện. Không hẳn là Berta vốn có thái độ điềm tĩnh, chỉ là cảm xúc của cô không bộc phát vậy thôi.

Tuy nhiên, Yukinari nhìn qua ống ngắm để xem viên đạn rơi chỗ nào.

Cô đã trượt, ổn. Nhưng chẳng liên quan gì đến may mắn.

Phát thứ hai đi gần như chính xác chỗ của viên thứ nhất. Và bởi lẽ hình nhân đang hơi nghiêng ngả trước chấn động của phát đầu tiên, phát thứ hai sẽ khó hơn một nấc.

“Không đùa được đâu,” Yukinari nói. Nếu như hình nhân còn nguyên vẹn, như lúc bắn phát đầu tiên, thì có khi cô đã trúng.

“Cả-Cảm… ơn…”

Berta dường như vẫn chưa hiểu tầm quan trọng của việc mình vừa làm; có vẻ cô chỉ hơi ngượng ngùng chút xíu. Có lẽ cô vui vì được Yukinari khen.

Mà, điều này là ngoài mong đợi rồi, Yukinari nghĩ.

Bắn tỉa đòi hỏi sự kiên nhẫn. Ta phải ngồi và đợi, im lìm như một tảng đá, cho đến một khoảnh khắc nhất định. Nó gần như là trái ngược hoàn toàn với đấu kiếm, với việc di chuyển và chém, cố tạo ra một sơ hở. Cũng như không giống với việc cố bắn trúng một mục tiêu di động trong giao tranh cự li gần. Kẻ thù là chính bản thân thì đúng hơn là đối phương.

Liệu Berta có thể có tài năng cho việc này không?

Cậu nhìn lại vũ nữ đã được hiến dâng cho mình. Cô ấy đang bắt đầu lúng túng trước Derrringer, vẫn còn yên vị trên ụ đất.

Buổi thử nghiệm kết thúc, Yukinari và mấy người còn lại trở về Friedland để cho Fiona biết kết quả. Sau khi ăn uống, họ trở lại thánh địa.

Yukinari nói cảm ơn với Ulrike, vốn đang đợi ở đó, và nhanh chóng vùi mình vào chỗ ở như mọi khi, tháo rỡ Derrringer. Không như Durandall và Ớt Đỏ, vốn được sử dụng phần nhiều giống với những khẩu súng cậu lấy mẫu, với khẩu mới này cậu đang cố gắng chuyển hóa một khẩu đerringgiơ, súng ngắn loại nhỏ, cho hợp với việc bắn tỉa—một ý tưởng vốn là lố bịch. Có khả năng rõ rệt là các bộ phận của nó sẽ vỡ ra dưới áp lực, hoặc các vấn đề khác có thể xuất hiện. Cậu chỉ đang kiểm tra xem mọi thứ có hoạt động theo thứ tự hay không.

Cậu không chỉ kiểm tra khẩu Derrringer họ dùng để bắn hôm đó, mà còn các phụ tùng khác nhau đã được chuẩn bị, chắc chắn rằng không có gì bị biến dạng hay hỏng hóc. Nếu mọi thứ trông ổn thỏa, cậu định tạo ra ba khẩu Derrringer, để hiệu quả hơn cho việc tập bắn.

“Trông không có vẻ là có vấn đề gì cả,” cậu lẩm bẩm, nhìn các bộ phận của vũ khí trải ra trên tấm vải.

Một khẩu súng lớn như vậy, mà lại có ít mảnh ghép một cách ngạc nhiên. Phần lớn nhất là nòng, theo sau là báng, rồi khung cơ khí, và cuối cùng là tay cầm. Không kể ống ngắm, thì chưa có đến ba mươi bộ phận, khoảng một phần ba trong đó là lò xo hoặc ống vít.

“Có lẽ mình nên gắn tay vịn hay gì đó, đẻ lần sau bắn thử dễ hơn…?” cậu tử nhủ trong lúc tiến hành tạo ra những khẩu súng mới. Bên cạnh cậu, Veronika đang quan sát đầy hứng thú. Cô đã tới thánh địa cùng Berta, người đang lo rằng việc dọn dẹp và nấu nướng và giặt giũ ở đó có lẽ không được hoàn thành nếu không có cô ấy. Do đó cô ấy đã đề nghị trở lại trong chốc lát, cùng lúc Veronika tình nguyện theo cùng. Cô có hứng thú với súng xiếc, phải, nhưng trên hết, có vẻ cô muốn thấy Yukinari “giả thần.”

“……Thế,” Yukinari nói khi bắt đầu đến với khẩu Derrringer thứ hai. “Có điều gì mà cô muốn nói không?”

“Anh gọi thứ này, là một một khẩu súng ngắm hả?” Veronika chuyển sang nhìn cậu. “Cái ‘Derrringer’ này… Anh nói là để làm thí nghiệm. Rằng anh không biết nó sẽ xử lí thế nào. Vậy còn cái ‘Durandall’ mà anh thường dùng, nó xử lí tốt hơn hả?”

“Một chút, chắc thế,” cậu nói sau một hồi suy nghĩ.

Sự thật là, trong số ba vũ khí cậu tạo ra—Durandall, Ớt Đỏ, và Derrringer—thì cái dễ nhất để dùng cho tấn công là Durandall.

Ớt Đỏ, một khẩu lục nhỏ, có lẽ trông đơn giản, nhưng súng lục thì khó nhắm hơn súng trường hay súng cacbin, Kích cỡ nhỏ hơn khiến chúng nhắm không vững bằng. Đó là lí do tại sao, trong nhiều đội quân của các triều đại trong quá khứ, súng lục được các sĩ quan mang để bảo vệ chính mình, trong khi vũ khí cơ bản dùng trong chiến trận là súng trường loại nhỏ.

Ban đầu khi Yukinari thiết kể Ớt Đỏ để bảo vệ cá nhân Dasa, cậu nghĩ sẽ làm thứ gì nhỏ cho vừa với túi cô nàng. Cậu chưa bao giờ tưởng tượng cô sẽ dùng nó trong nhiều tình huống như vậy.

“Thế, cho tôi một khẩu Durandall đi,” Veronika nói. “Với cả nhiều… ‘đạn’ nữa, gọi thế phải không? Nếu được thì, càng nhiều đạn càng tốt.”

“Vẫn còn định trở lại Aldreil sao?” Yukinari hỏi, không rời mắt khỏi việc của mình.

“Phải.”

“Để giúp bạn?”

“Ừ.” Cô trả lời không hề do dự.

Yukinari lặng yên một lát, rồi hòi, “…Cô sẽ làm gì nếu như họ đã chết?”

“Báo thù cho họ.” Veronika lại trả lời ngay tắp lự. “Đó là một lí do khác tôi cần vũ khí. Thanh kiếm hỏng của tôi không xài nổi nữa rồi,” cô nói bóng gió.

“Nói kiểu thế thì khó mà từ chối rồi,” Yukinari mỉm cười nói. Dasa là người làm hỏng kiếm của Veronika, nhưng hành động của cô nàng, theo nguyên tắc, được quy cho tránh nhiệm của người bảo hộ của cô, Yukinari.

“Anh cũng sẽ ngăn tôi sao?” “…Chẳng biết nữa,” Yukinari nói.

Nói rằng trả thù không giải quyết được gì cả thì dễ, nhưng Yukinari khó mà ở vào vị trí để giáo huấn người khác về điều đó. Khi Jirina bị giết, cậu đã rơi vào cuộc thảm sát các thành viên của Giáo Hội Harris. Cậu còn chẳng đếm nổi số nạn nhân của mình; cho đến nay, cậu chẳng biết mình đã giết bao nhiêu người rồi nữa. Nếu Jirina đã không nhờ cậu chăm sóc Dasa, thì hẳn cậu sẽ ở lại thủ đô, tàn sát mọi kẻ liên quan đến Giáo Hội cho đến khi sức cùng lực kiệt.

“Trả thù,” cậu suy tưởng. “Báo oán… Không hẳn có ích lắm đâu.” Gần như có thể là cậu đang nói với chính mình.

Trả thù chỉ thỏa mãn được bản thân. Nếu đặt bản thân trên mọi điều khác, thì báo oán có thể có ý nghĩa, nhưng ta chẳng nhận được gì cụ thể từ nó. Tuyệt đối không gì cả. Nó tiêu tốn thời gian và năng lượng. Hoặc ít ra, là Yukinari nghĩ thế. Cậu cảm thấy nó càng sâu sắc hơn bởi cậu đang nghĩ tới nó ở thời khắc này.

“Sự thật rằng cô đã sẵn sàng để chết vì nó, nó rất là—nói sao nhỉ? Nguy hiểm. Chết chỉ để cố mà thỏa mãn bản thân… Có vẻ là vô nghĩa.”

“Thỏa mãn bản thân?” Veronika nhướn mày. “Tôi không điên tới mức làm điều gì như vậy chỉ để tiêu khiển.”

“Vậy thì nó còn để cho mục đích gì khác? Cô không nhận được phần thưởng gì từ nó, và không hẳn là bạn bè đã chết của cô thấy vui… Chắc có thể nói rằng nó không có lợi ích thực tế gì cả.”

“Không có lợi ích thực tế? Hửm…” Veronika có vẻ ngạc nhiên trước điều này; cô nhìn từ phía Derrringer sang Yukinari. “Yukinari, anh được sinh ra ở đất nước nào? Được nuôi lớn ra sao?”

“Tự nhiên nói vậy là sao hả?” Yukinari ngừng việc đang làm và nhìn Veronika.

“Đừng có bực, cứ nghe tôi nói đi. Có vẻ là anh đã được nuôi nấng rất tốt. Một nơi yên bình nào đó, tôi cho là vậy, một đất nước được trị vì anh mình…”

Yukinari nhìn cô, bối rối.

“Lẽ thường thôi mà,” Veronika nói. “Nếu không chiến đấu, đối phương sẽ khinh thường. Nếu chiến đấu mà chẳng được gì thì lại càng đúng. Con người là vậy. Báo thù rất có ích; nó ngăn chặn bi kịch kế tiếp xảy đến. Có câu nói rằng, nếu làm hại bọn ta, các ngươi sẽ phải trả giá. Nếu phe kia biết rằng ta mạnh, lần sau chúng sẽ không hăm hở tấn công ta nữa.

“Điều đó…”

“Tôi đồng ý với anh, tốt hơn là sống trong hòa bình mà không tranh đấu. Nhưng nếu anh khước từ đổ máu để đạt được điều đó, sẽ ngay từ đầu sẽ chẳng bao giờ có hòa bình.”

Yukinari cạn lời.

“Aaa,” Veronika nói, biểu hiện mềm mỏng thành một nụ cười. “Chắc anh đang tự hỏi lính đánh thuê thì có lí gì mà phải huyên thuyên mấy điều như thế. Nhưng anh biết không, tôi sinh ra không phải là lính đánh thuê. Điều tôi đang nói là kết luận cá nhân, dưa trên cuộc đời tôi đã sống mà thôi.”

“Veronika,” Một lát sau Yukinari lên tiếng. “Bản thân cô được nuôi dạy tốt đấy, phải không?”

“Điều gì khiến anh nói thế?”

“Những điều cô đang nói, là cách nghĩ của một người có giáo dục. Có một logic rõ ràng. Và từ ngữ cô dùng, cách biểu đạt—có đôi chỗ có phần hơi khó hiểu hơn.”

Yukinari kích hoạt khẩu Derrringer vừa tạo ra trong khi nó còn rỗng, chắc rằng mọi phần chuyển động đều hoạt động.

“…Phải,” Veronika nói. “Ấy là một cuộc đời tử tế. Dù sao thì, nhiều năm về trước, nhà của tôi bị phá hủy và cha tôi thì bị giết. Cha tôi mạnh mẽ, nhưng cũng tốt bụng. Nên mọi người đều khinh thường ông ấy.”

Yukinari không nói gì cả.

“Nhưng…” trong một khắc, trông Veronika như thể sầu muộn về điều gì đó. “Với tôi trông anh như được che chở, bảo bọc trong hòa bình, nhưng chỉ việc những người nghĩ như anh còn tồn tại thôi cũng khiến tôi vui. Mẹ tôi… Bà đã từ trần ngay trước cha tôi, nhưng bà ấy cũng vậy.”

Yukinari không thể lựa được từ ngữ thích hợp. “Nghe… Nghe như là cô đã trải qua rất nhiều.”

“Mà, mừng thay, nó đã cho tôi sức mạnh để sống sót,” Veronika nói, rồi mỉm cười.

Berta và Veronika quyết định là ở lại thánh địa tối hôm đó. Vừa lúc Yukinari xong việc với Derrringer, bên ngoài trời đã tối hẳn, và trở lại Friedland thì sẽ nguy hiểm. Có nhiều chướng ngại vật dọc theo đường núi, và trời đầy mây đồng nghĩa với việc không có ánh sáng từ trăng hay sao. Và chỉ một cái đèn đường cầm tay thôi thì không mang lại nhiều tự tin cho lắm.

Berta trở lại phòng mình lần đầu tiên trong vài ngày và chuẩn bị thêm một chỗ ngủ. Thánh địa vốn không được xây để tiếp khách; còn một phòng trống, nhưng hiện Ulrike đang ở đó. Veronika không thực sự phải có phòng riêng, nên cô sẽ ngủ trong phòng Berta.

Rõ ràng là đã quá trễ để tạo ra một chiếc giường, nên Berta sắp một chỗ ngủ tùy hứng với mền và gối. Cơ mà, cô vẫn ngại vất chúng ra sàn, nên đành đặt một tấm gỗ bên dưới.

“Xin lỗi nhé,” Veronika nói, vào phòng ngay khi Berta vừa sắp xếp xong. Cô ấy liếc quanh, rồi đặt luôn đồ của mình xuống ngay cạnh cái giường vừa làm mà không hề do dự. Rồi cô cởi bỏ bộ giáp đang mặc. Và rồi, trước sự bối rối của Berta, cô leo lên giường.

“U-Um…”

Cái ‘giường’ này chỉ là một tấm ván gỗ với mền và gối, những đồ còn thừa cô tìm được quanh thánh địa. Không thể nào có chuyện thoải mái. Berta đã định tự mình dùng nó, nhưng giờ thì…

“Hả, sao vậy?” Veronika ném một cái nhìn lãnh đạm về phía cô. “Ồ, ờm, tôi chỉ đang nghĩ là cô có thể… dùng giường của tôi…”

“Không sao, vậy được rồi,” Veronika khẽ mỉm cười nói. “Tôi quen ngủ ngoài trời rồi. Miễn có thể xoay sở là được. Ở đây còn có cả gối. Ăn mày thì không thể đòi xôi gấc được.”

“Ra vậy…”

Berta khó lòng mà nhấn mạnh ý thêm được nữa. Thay vào đó, cô đường hoàng leo lên giường của mình, và rồi, nghe Veronika ừ một tiếng, dùng gối để dập đèn.

Tức thì, căn phòng tràn ngập bóng tối. Nó tối đến mức, cô không thể thấy bàn tay để trước mặt mình. Sự mất đi thị giác theo bản năng mài bén thính giác của cô. Cô có thể phát hiện ra hơi thở và nhịp tim của chính mình, cũng như hơi thở của Veronika, ngay gần đó, và tiếng sột soạt của vải mỗi khi cô ngọ nguậy dưới tấm mền.

Berta nằm yên lặng. Lần đầu tiên, cô không thể ngủ được. Hằng đêm cô đều nằm trong bóng tối, nhắm mặt lại, và cứ thế lịm đi. Trở lại hồi ở cô nhi viện, việc chung phòng với một người khác là hoàn toàn bình thường. Vậy mà giờ…

“Không ngủ được à?” Giọng Veronika đột nhiên vang lên trong bóng tối. Berta tưởng Veronika đã ngủ ngay, nhưng có vẻ là vẫn còn thức.

“À… Không.”

“…Tôi hỏi điều này được không?”

Điều này có hơi đột ngột, nhưng Berta đáp, “V-Vâng, nếu được tôi sẽ trả lời…” “Cô thích cái gã Yukinari đó phải không?”

Cô trả lời ngay lập tức: “Phải.”

Veronika, có vẻ lại không thích câu trả lời này. “Không, ý tôi không phải thế.”

“Hở…?”

“Tôi không bảo là, cô có tôn trọng hắn như kiểu bằng hữu hay là có sự đồng điệu với hắn, ý tôi đơn giản là cô, một người phụ nữ, có cảm giác gì với hắn, một người đàn ông hay không?”

Berta không thể nghĩ ra điều gì để nói. Cô không thực sự hiểu ý Veronika là gì. “Tôi là vu nữ đã được dâng cho Chúa Tể Yukinari. và—”

“Ừ, tôi nhớ cô có nói vậy. Nhưng cô cũng nói rằng dù thế, hắn vẫn chưa bao giờ động vào cô. Với tôi hắn không mang lại ấn tượng như kiểu là không có hứng thú tí nào với phụ nữ. Vậy điều đó tức là hoặc bản thân hắn không hứng thú với cô, hoặc hắn cảm giác như có trách nhiệm gì đó với cô gái Dasa ấy.”

“À, thì…”

“Hay chính cô mới là người đang kìm nén vì Dasa?”

Berta im lặng. Cô đã không nghĩ nhiều về nó, nhưng có lẽ là vậy thật. “Cảm xúc cô dành cho Yukinari—là vì cô là vu nữ của hắn? Hay vì hắn đã cứu mạng cô? Bất kể là cái nào—nếu chỉ có vậy—thì cũng chẳng thành vấn đề. Nếu như Yukinari không tìm kiếm ở cô điều gì, thì cô không cần phải cố khiến hắn tình tứ với cô do mặc cảm bổn phận hay mắc nợ.”

“Cô… không nghĩ thế sao…?”

“Nếu cô yêu hắn như một người phụ nữ, thì cô sẽ còn muốn hơn nữa.”

Berta lại không nói gì.

“Cô có hạnh phúc với cách mọi chuyện diễn ra chứ? Hay là không? Nếu cô cứ mãi kìm nén vì Dasa., thì sẽ chẳng bao giờ có được tình cảm của Yukinari hết—vậy có ổn không? Tôi biết là nghe không hay, nhưng nếu cô muốn gì đó, đôi khi cô phải tranh đấu, chiếm đoạt. Tôi không bảo là cô nên trừ khử Dasa, dĩ nhiên rồi. Vấn đề nằm ở cảm xúc của cô mà thôi.”

“Xin lỗi… Tôi không… thực sự hiểu lắm…”

Đó là lời đáp liền của cô. Nhưng Berta nhận ra rằng đâu đó trong tâm, cô đang đồng tình với những lời Veronika nói. Nếu Berta muốn tình yêu của Yukinari—không phải bổn phận hay mắc nợ, mà chân thật—thì cô không thể cứ chờ mãi được.

Thật khó để cô nói ra cảm xúc chân thực, dồn nén của mình thực sự là gì. Lâu như những gì có thể nhớ, cô đã được dạy rằng một ngày nào đó bản thân sẽ được dâng cho thổ thần. Cô đã được dạy rằng mình không giống những cô gái dân làng khác, những người mơ được rơi vào lưới tình, kết hôn, sinh đẻ và nuôi dạy con cái. Một tương lai như vậy, cô được bảo là, không có chỗ cho cô. Vậy nên cô đã luôn cố không nghĩ về nó.

Giờ thì, đột nhiên, cô lại đang được bảo rằng có yêu một ai đó như đối tượng cho khát khao của mình thì cũng không sao cả, và cô không biết phải làm thế nào nữa. Cô chưa từng được cho phép muốn một điều gì đó cho riêng mình, và điều đó khiến cô có cảm giác rằng có lẽ khát khao của mình là sai trái. Nhưng…

Chúa Tể Yukinari…

Yukinari tốt bụng. Cậu thực sự tốt bụng. Nếu cậu đã không cứu cô— Nếu cậu đã không đảm nhiệm vai trò của thần—

Nếu cậu đã không làm những điều đó, liệu Berta có còn muốn dâng mình cho cậu? Nếu như cô đã không bị hoàn cảnh đưa đẩy tới mức này, liệu cô có còn muốn sánh vai cùng cậu?

Cô nghĩ về điều đó, và… có. Cô tin là mình vẫn sẽ.

Vậy ra đây là tình yêu cô dành cho cậu. Có lẽ ban đầu nó là bổn phận, hoặc bởi vì cô nợ cậu ấy cả mạng sống, nhưng kể từ lúc cô nhận ra điều này, nó đã trở thành tình yêu đích thực.

Cô có quyền chủ động theo đuổi cậu.

Nhưng… Làm thế nào? Cô có thể làm gì? Cô không thông minh như Fiona. Cô thiếu trí thông minh của Dasa, chưa kể quãng thời gian dai dẳng mà cô nàng đã dành với Yukinari. Cô không có sức mạnh tuyệt đối như Ulrike. Ngay cả khi cô không định gạt những cô gái khác sang một bên, cứ thế này Berta sẽ bị bỏ lại.

“Thật là sai lầm khi nghĩ rằng mọi thứ sẽ theo ý mình mà không phải làm gì cả. Đôi khi, khi ta nhận ra điều đó, thì đã quá muộn.”

Veronika dường như đã đọc được ý nghĩ của cô. Giọng cô ấy ảm đạm—nhưng cũng trống rỗng; nghe như kiểu cô đang nhìn xa xăm. Lời lẽ của cô dường như xuất phát từ kinh nghiệm bản thân. Rõ ràng là, cô ấy có hối tiếc điều gì đó. Một thời khắc mà cô ấy đã không làm gì, hoặc là không thể làm gì cả.

Có điều Veronika đã nói lướt qua tâm trí Berta.

Tôi mệt mỏi việc bỏ lại người khác rồi.

“Xin lỗi,” Veronika nói, thoáng nở một nụ cười. “Có lẽ đó chẳng phải chuyện của tôi. Cô đã làm cho tôi nhiều điều, và tôi biết ơn lắm. Tuy không nhiều, nhưng tôi nghĩ những lời ấy sẽ giúp được cô. Nếu cô không thích thì… cứ coi nó như mấy lời ba hoa của kẻ qua đường lạ mặt đi.”

“Không, tôi—”

“Ngủ ngon nhé, lần này là thật đấy.” “Ừm. Ngủ ngon…”

Berta lại nhắm mắt lại. Màn đêm và mí mắt tạo thành hai lớp bóng tối bao trùm lấy cô. Cô nằm đó, trở đi trở lại những lời của Veronika trong tâm trí mình

Buổi sáng. Dạo này thức dậy đúng là việc tệ nhất.

Hắn sẽ dậy để thấy mình đang ở một căn phòng kém tắm hơn nhiều so với căn hắn từng có ở căn nhà nơi hắn lớn khôn. Nó còn chẳng tốt bằng cái chỗ trọ của hắn trong doanh trại hồi gia nhập Lệnh Truyền Giáo. Gió luồn qua những khe nứt, đêm tối tăm, giường cọt kẹt, gối thì mỏng. Ít ra còn đỡ hơn cắm trại ngoài trời, bởi nó chắn được hầu hết mưa nắng.

Thảm hại. Một chốn thảm hại tột cùng để mà sống.

Mà, rút cục, hắn mặc chiếc áo thân quen—hắn đã rắt một mớ thêm vào hành lí khi Đoàn Viễn Chinh Khai Hóa khởi hành—và bắt đầu cảm thấy mình lại là người.

Hắn nghĩ về công việc trong ngày. Khi hàng hóa lên đường tới Rostruch, hắn sẽ làm bảo kê. Một vài ngày khác, đại thể hắn đi tuần vòng quanh Friedland và trông coi an toàn cho cộng đồng. Đó là cơ bản. Hắn không chắc về việc hộ tống đoàn thương nhân, nhưng trông coi sự ổn định địa phương là một phần của công việc hắn vốn được phái đến đây để làm, nên hắn không có sự phản đối cụ thể nào cả. Cơ mà, hắn thấy phiền khi cư dân thị trấn nhìn hắn, trong mắt họ chẳng hề có tí tôn trọng hay nể sợ. Tùy ngày mà có khi hắn còn bị đẩy cho mấy việc lặt vặt.

Sự thật là, đó là điều hắn không bằng lòng nhất. Các hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo rèn luyện vất vả, nhưng chiến đấu và làm nông về cơ bản sử dụng cơ thể theo những cách khác nhau, thành ra hắn luôn mệt hơn so với dự tính. Công việc lạ lẫm khiến cơ hắn nhức mỏi. Và nếu hắn thậm chí mất hơi lâu để làm gì đó, cư dân thị trấn sẽ chẳng ngần ngại hét vào mặt hắn. Hắn vốn được sinh ra trong quý tộc; hắn chưa từng bị đứa dân thường nào hét vào mặt cả.

“Lẽ ra ta phải là hiệp sĩ!”

Những lời lẽ uất ức xổ ra từ miệng hắn, nhưng không ai đáp lại. Phàn nàn trong đơn vị là điều bình thường, nhưng ngay cả trong Lệnh thì quý tộc cũng hiếm, thành ra có nhiều người lặng lẽ chấp nhận điều xảy ra với mình. Có rất ít kẻ có thể làm hắn động lòng trắc ẩn.

Vậy mà, cơ thể con người là một thứ đáng kinh ngạc; ngay cả khi hắn nhận ra được điều đó, mặc cho những tình cảnh mà chưa bao giờ ao ước mình bị đẩy vào, hắn vẫn đang thích nghi từng chút một. Thỉnh thoảng mấy cô bé từ cô nhi viện cho hắn vài lời động viên khi chúng đi qua. Nó không nhiều, nhưng giờ lại là một trong những niềm vui lớn nhất của hắn. Nếu bản thân hắn, của một năm trước, có thể thấy hắn đã sa đọa tới mức nào, thì hắn sẽ nghĩ gì đây?

Với những suy nghĩ ấy trong đầu hắn rời căn lều mà hướng xuống phố, ngay lúc có ai đó gọi tên hắn.

“Chà, chẳng phải là anh công nhân chăm chỉ, Arlen đây sao.” Hắn—Arlen Lansdowne—quay sang Fiona Schillings, đi cùng với người có vẻ là hầu gái. “Đi tuần sớm vậy sao?”

“…Hừm.”

Arlen đã gặp Fiona tại học viện ở thủ đô, và cô ấy vẫn luôn như vậy: rất thông minh, đổi lại là cứng đầu một cách kì lạ và xấc xược. Kể từ hồi họ gặp lại ở Friedland, hắn nghĩ cô ta chỉ càng thêm khoa trương. Đúng là một ả đàn bà vô vọng.

“Chắc là đang quen dần với việc giúp thị trấn rồi nhỉ?” cô hỏi. “Tôi có thấy mấy cô bé ở cô nhi viện dừng lại chỗ anh. Đừng có dạy chúng nó điều gì kì quặc, được chứ?” Có lẽ Fiona nghĩ đây là lời đùa cợt nhẹ nhàng, nhưng Arlen thì chỉ càng điên tiết trước câu móc mỉa.

“Ng-Người là một con đàn bà thô tục! Một con đàn bà thô tục thực sự!”

Fiona không nao núng trước sự bột phát của Arlen. “Ngươi bực cái gì vậy hả? Ta nói cái gì mà là thô tục? Đây còn tưởng là đang động viên ngươi cơ chứ.”

“Dám nghĩ ta sẽ đến mức chạm vào những đứa trẻ nhỏ như vậy!”

“Chạm vào chúng?… Hể, ra là thế à? Ta đang nói đến việc cố truyền bá cho chúng những giáo lí của Giáo Hội hay cách nhìn thế giới méo mó của ngươi cơ. Ai mới là người có đầu óc đen tối ở đây nào?”

“Hự…?” Arlen, người quả thực là đã hiểu lầm Fiona, không đáp lại.

Vậy mà, Fiona vẫn có sự điềm đạm hơn cả tuổi tác, và hắn không thể chịu nổi nó. Chỉ là hắn không khỏi cảm thấy rằng cô ta đang đùa cợt về cái đáy vực nơi hắn ngã xuống.

“N-Ngươi muốn động viên ta ư? Thế, làm thì hay hơn nói đấy! Trước hết, hãy làm gì đó với cái mái nhà tồi tàn đó đi!”

“Hả, ngươi muốn bọn ta xây dinh thự cho ngươi à?” Fiona cười điệu. “Ngươi tính làm gì nào? Bộ não vẫn còn ngủ hay sao? Ngươi không thể nói mơ khi mà đang tình táo, biết không hả.”

Arlen cạn lời. Fiona đã luôn là thế. Cô ta là một người nhanh trí, có thể chế ra hoàn cảnh cho mọi thứ và khiến nó thuận tai. Hắn đã rơi vào không ít hơn một vài cuộc tranh cãi với cô ta trong đời, nhưng chưa bao giờ thắng cả.

“Được rồi,” cô nói. “Di chueyenr đi. Dậy sớm thì phiền lắm đấy—đừng lãng phí!” Hứm.”

Còn dây dưa với cô ta nữa chỉ tổ làm hắn bực hơn. Tốt hơn hết là bắt tay vào việc, cho dù hắn không muốn. Hắn cất bước, nhưng giọng Fiona vang lên sau lưng hắn.

“Đúng là ta có biết ơn ngươi lắm. Xong việc hôm nay ta sẽ làm cho ngươi một điều ngọt ngào—cứ chờ đi!”

Arlen cảm thấy má hắn nhếch lên khỏi mép và cố ép chúng hạ xuống. Hắn không nghĩ Fiona có thể thấy, nhưng để cho chắc. Hắn khó mà có thể tự gọi mình là hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo—hay thậm chí một người trưởng thành—nếu để bị vài mánh mua chuộc như vậy. Fiona hẳn nghĩ là cô ta rất thông minh, Arlen tự nhủ, biết xài cà rốt để dụ thỏ. Nhưng Arlen Lansdowne sẽ chẳng bị dụ dễ thế đâu.

Phải. Hắn là Arlen Lansdowne, hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo. Có lẽ hắn đang làm việc như con ở tại Friedland, nhưng chắc chắn không có nghĩa là hắn đã quay lưng lại với những giáo lí của Giáo Hội Chân Chính Harris. Hắn không phải kẻ bỏ đạo.

Sự thật là, điều Arlen và các hiệp sĩ khác đang làm tại Friedland hiện giờ, trên nguyên tắc, không quá khác so với kế hoạch ban đầu của họ. Tại đồn trú địa phương, họ sẽ bảo vệ thị trấn. Bởi lẽ Yukinari vốn đã đánh bại thổ thần, sinh vật được ủng hộ bởi phong tục man rợ của khu vực, công việc của các nhà truyền giáo có thể được coi là đã xong một nửa. Chắc thế. Hắn nghĩ.

Nếu có điều gì đó cụ thể là vấn đề, thì đó là Yukinari đã phá hủy tượng thánh bảo hộ…

“Nhưng đã xong rồi,” hắn tự thì thầm. “Chẳng thể làm gì được nữa.”

Họ vốn chưa từng nghĩ dù chỉ một khắc rằng sẽ tìm thấy Thiên Thần Xanh khi đoàn của họ tới đây. Cũng như mong đợi rằng khả năng chiến đấu của thiên thần còn hơn cả tượng thánh bảo hộ. Các thiên thần vốn được tạo ra để biểu diễn phép thuật khi cải đạo quần chúng; chúng chưa từng định được dùng cho chiến trận. Arlen chưa bao giờ xem xét ý niệm cho thiên thần đọ sức với tượng bảo hộ.

Bất kể thế nào, họ cũng đã không lên kế hoạch cho điều này. Họ chẳng thể làm gì được. Kẻ địch của họ hóa ra lại mạnh một cách áp đảo.

Đương đầu với một kẻ địch mạnh mẽ hơn gấp nhiều lần, với một thứ mà chẳng có hy vọng chiến thắng, là việc vô ích. Arlen đang làm điều thông minh. Hắn đang bảo vệ bản thân, giữ lấy chút ít tự do, và hoàn thành một vài phần trọng trách hiệp sĩ của mình—ngay cả khi hắn phải giả vờ nghe lời những kẻ giam giữ hắn.

Trong tình cảnh này, đây là lựa chọn tốt nhất. Nên hắn cứ tự nhủ. Và rồi.

“—è. —y, có nghe không đó?!”

Giọng khiến hắn sực tỉnh. Hắn vội vã nhìn quanh và nhận ra mình đã ra ngoài thị trấn.

Vào ban ngày, vài cổng thị trấn để mở, khiến cho việc ra vào tương đối dễ dàng. Arlen đã bước theo, lạc trôi trong suy tưởng, và rời khỏi những bức tưởng mà không hề hội nhóm với đám truyền giáo bằng hữu của mình. Lính canh ở cổng biết Yukinari đã nhờ Arlen và những người khác đi tuần, nên họ sẽ không ngăn lại cho dù có nhận ra hắn.

Ngay cả vậy…

“Arlen Lansdowne?”

Lại là giọng nói gọi tên hắn.

Một nữ hiệp sĩ đứng trước mặt hắn. Cô mặc một bộ đồ nhẹ—không giáp sắt, nhưng quần áo đôi chỗ có đính dấu hiệu của Lệnh Truyền Giáo. Cô ta có lẽ chừng hai mươi tuổi, và mặc dù trẻ như vậy, nhưng lại có ba người đàn ông đi theo.

Ừ nhỉ… Mình chưa từng nghe cô ta bao tuổi, hắn nghĩ.

Có nhiều thành viên của các dòng dõi quý tộc hùng mạnh gia nhập Lệnh Truyền Giáo, nên thấy một phụ nữ trẻ ở vào vị trí cầm quyền thì thật bất thường. Bản thân Arlen vốn ở một vị trí tương đối cao so với tuổi của mình, nhờ vào địa vị quý tộc của hắn.

“Ồ—Ồ! Đã lâu không gặp, Angela Jindel.”

Hắn là một hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo. Đó là điều hắn nhắc nhở bản thân mình khi vội vã thẳng lưng và chào người phụ nữ.

Angela Jindel. Họ biết tên và mặt nhau bởi họ gia nhập Lệnh cùng một lúc. Angela đã quá say mê với những giáo lí của Giáo Hội Chân Chính Harris đến mức hắn ngờ rằng cô ta không gia nhập chỉ để làm đẹp mặt mình, và mặc cho giới tính của mình cô ta vẫn giữ được mình trước các thành viên khác của Lệnh.

Giờ nghĩ lại, hắn có nghe đồn thổi rằng cô ta đã được ấn định cho Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Chín.

“Có phải thị trấn Friedland kia không?” cô hỏi, nhìn những bức tường mọc sau lưng Arlen. “Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Sáu đóng ở đâu vậy?”

“Ờ, ừm, phải. Dĩ nhiên rồi.” Hắn gật đầu, cố che giấu cơn rùng mình chạy qua người hắn.

“Cải đạo đến đâu rồi?” “Tốt đẹp. Chúng tôi không có trục trặc gì cả.”

Nghe như thể hắn đang lấy cớ gì đó. Một nét ngờ vực thoáng qua mặt Angela, song cô không theo tới cùng. Không có vẻ là cô ta được tổng cục Giáo Hội ở thủ đô phái đi chỉ để coi mọi chuyện đang thế nào với Lữ Đoàn Thứ Sáu. Nhưng thế, thì sao?

“Ra vậy. Thế chỉ đường cho ta tới Friedland, được chứ?” “Được, cứ để—tôi?!”

“Có vấn đề gì không?”

“Ư-ừ, không—không hề!” Hắn nhăn mặt nghiêm trọng, cố che giấu chỗ vấp trong giọng mình. “Sao cô lại hỏi thế…?”

“Ngươi sẽ ngạc nhiên khi biết là có nhiều thị trấn trông có vẻ đã được cải đạo, nhưng vẫn chứa chấp những phần tử nổi loạn đấy,” Angela nói. Nghe có hơi mâu thuẫn. “Bọn ta đang tìm nột người. Như đã nói, có nhiều những dốt nát vùng biên giới này từ chối hợp tác với chúng ta, nên ta chỉ muốn biết trước mọi chuyện đang thế nào. Thứ lỗi cho ta nhé.”

“V-Vậy sao? Đừng bận tâm chứ.” Arlen bằng cách nào đó lấy lại được uy thế của một hiệp sĩ của Lệnh Truyền Giáo, ngay cả khi mồ hôi lạnh nhỏ xuống lưng hắn.

Dinh thự đã trở nên khá là sống động. Fiona, tham dự công việc hàng ngày trong văn phòng của mình, nhăn mặt và ngước nhìn.

“Hử…?”

Sử dụng công thức tạo ra thông qua sự tham khảo với Yukinari và Ulrike, cô đang cố xác định loại sản lượng cây trồng nào họ có thể mong đợi từ những cách đồng và phương pháp tưới tiêu mới. Nhưng cô khó mà tập trung tính toán được khi căn nhà ồn ào như vậy.

Thở dài một tiếng, cô đặt bút xuống và đứng dậy—và như kiểu dây là một loại ám hiệu, cánh cửa văn phòng bật mở ra mà chẳng hề có tiếng gõ cửa.

“Ch-Chuyện gì vậy? Ngươi là ai?!” Fiona hỏi, ngạc nhiên.

Cô thấy mình đang đối mặt với một người phụ nữ mặc đồng phục của Lệnh Truyền Giáo. Cô ta chỉ đang mặc giáp nhẹ, thiết kế có phần khác so với Arlen và những người đàn ông khác, nhưng Fiona đã từng thấy nữ hiệp sĩ ở thủ đô. Không hẳn là cô nhớ trong đơn vị của Arlen có phụ nữ…

“Cô là người đứng đầu thị trấn này phải không?”

Lời lẽ lịch sự, nhưng bản thân chất giọng thì lại ngạo mạn. Nói chung, nó khiến cô nhớ lại Arlen hồi hắn mới tới Friedland. Sự khinh bỉ đối với Fiona và những con người đồng hương mọi rợ không thể lẫn vào đâu được.

“Trẻ phết nhỉ?” Bản thân nữ hiệp sĩ trông không già lắm.

“Ta không biết ngươi là ai,” Fiona nói, “nhưng ngươi đã làm tốt trong việc nhớ lấy cách cư xử đấy. Ban đầu cô bị sốc, nhưng giờ lại cau có trước thái độ hống hách của người phụ nữ kia. Fiona chẳng quan tâm cô ta là hiệp sĩ truyền giáo hay Dominus Doctrinae; cô không hề có nghĩa vụ phải mỉm cười với một kẻ xộc vào phòng phụ nữ mà không thèm gõ cửa và bắt đầu hỏi những câu thô lỗ.

“Ta tin là một tên lính đánh thuê đã chạy tới thị trấn này. Nộp hắn ra đây.” Người phụ nữ còn chẳng nói tên, mà cứ thể đưa ra yêu cầu của mình.

“Lính đánh thuê? Tôi e là mình không hiểu ý cô nói.”

Chắc chắn cô ta đang đề cập đến Veronika. Fiona dù có muốn thì cũng không thể giao cô ấy ra được—Veronika đã rời đi rồi. Nhưng nếu cô nói sự thật thì khả năng hiệp sĩ nọ tin cô là bao nhiêu? Và trên hết, người phụ nữ này có lẽ thuộc về đồn trú Aldreil mà Veronika vốn đã nói tới.

Tức là…

“Ngươi không biết tí gì sao? Không phỏng đoán gì à?”

“Không. Mà nếu có biết, tôi cũng sẽ không có cảm giác bị ép phải chia sẻ với một người còn chẳng biết cách gõ cửa khi vào phòng.”

“Lạy chúa. Thứ lỗi nhé,” người phụ nữ nói, nhún vai. “Ta chưa bao giờ nghĩ một đứa mọi rợ của cái chốn này cảu thế giới lại từng nghe đến phong tục gõ cửa. Có lẽ nỗ lực khai hóa đã tiến triển tốt hơn ta mong đợi.”

Có vẻ như cô đang nói với ai đó sau vai mình. Một lát sau Arlen xuất hiện, thở không ra hơi.

“Jindel…!” hắn nói với người phụ nữ. Đồng thời, hắn chạm phải ánh nhìn xuyên thấu lạnh lẽo của Fiona.

Cái quái gì đang diễn ra thế này?! Ánh mắt cô dường như muốn nói.

Mồm Arlen úp úp mở mở, và hắn cật lực lắc đầu.

Không, ngươi hiểu sai hết rồi! Ngươi hoàn toàn hiểu sai rồi! cô nghĩ hắn đang nói. Chắc vậy. Cùng với đó hắn làm một tràng múa may không thể hiểu nổi, tuyệt vọng cố nói với cô điều gì đó, nhưng vì chưa từng học mật mã trước kia, suốt đời cô cũng chẳng thể hiểu nổi hắn đang nói cái gì.

“Ra vậy,” người phụ nữ nói, gần như là với bản thân. “Mà, có lẽ tên lính đánh thuê đã chết đâu đó trước khi tới được đây. Xác thì đã bị súc vật ăn mất rồi, không nghi ngờ gì nữa.”

Có vẻ là báo cáo giả của Arlen tới tổng hành dinh Giáo Hội ở thủ đô vẫn chưa bị phát giác; người phụ nữ này không phải từ một đơn vị đặc phái khác để giải quyết vấn đề. Cơ mà…

“Không tính chuyện đó, tại sao ngươi lại không đeo Thánh Dấu vậy?” Dường như cô ta cảm nhận được khắc dịu bớt ngắn ngủi và ghăm chết nó.

“Thánh Dấu?”

Phía sau người phụ nữ, Arlen lại đang nhảy cái điệu kì quặc, mặc dù hắn chắc nghĩ mình đang làm những cử chỉ có ý nghĩa. Fiona lườm hắn, cố nghĩ ra một lời bao biện ổn nhanh hết mức có thể.

“Ở thị trấn này, chúng tôi vốn đã có nhiều tín đồ say sưa với những giáo lí của Giáo Hội ngay cả trước khi các thành viên đáng kính của Lệnh Truyền Giáo đến.”

“Ôi trời. Vậy sao?”

“Vâng, thưa cô. Arlen Lansdowne và tôi là đồng môn tại học viện ở thủ đô. Thực ra bản thân tôi đã tìm cách gia nhập Lệnh sau khi tốt nghiệp, nhưng rồi tôi nhận được tin rằng sức khỏe của cha đang đi xuống nhanh chóng, nên tôi đành vội vã trở lại đây.”

“Đ-Đúng thế,” Arlen lắp bắp. “Hoàn toàn, chính xác 100%.”

Im cái coi, Fiona lườm hắn, rồi tiếp tục nói dối không chớp mắt. “Khi tôi nói với dân làng về Giáo Hội Chân Chính Harris, họ khá là tiếp nhận nó. Tôi không phải tăng lữ, nên không thể làm lễ rửa tội, nhưng những giáo lí của Giáo Hội vẫn lan ra như cháy rừng. Ngay khi chúng tôi đang xem xét có nên yêu cầu tăng lữ gửi đến hay không, thì Ngài quý tộc Lansdowne xuất hiện.”

“Ra vậy. Chuyện dài phết.”

“Vâng, thưa cô. Vấn đề duy nhất là, thổ thần của khu vực này là một sinh vật xảo trá. Nó nhục nhã đến mức tấn công sau lưng ngài Lansdowne và các đồng đội của ngài, phá hiểu hầu hết trang bị của họ… bao gồm cả thiết bị dùng cho nghi lễ cài Thánh Dấu.”

Fiona ngạc nhiên trước những lời nói dối tuôn ra từ miệng mình như mây bay nước chảy, nhưng vẫn giữ nụ cười trên mặt. Mẹo khi nói xạo khiếp như thế này là xen vào những sự thật nho nhỏ. Dĩ nhiên, quả thực là thiết bị Thánh Dấu đã bị phá hủy. Mặc dù Yukinari là người làm điều đó.

“Các nhà truyền giáo về sau đã đánh bại thổ thần, những bởi vốn đã có quá nhiều cư dân thị trấn là tín đồ, nên có quyết định rằng không cần phải hối thúc nghi lễ Thánh Dấu. Việc sửa chữa thiết bị và đặt những bộ phận mới bị hoãn lại trong lúc Ngài Lansdowne giúp sửa chữa thiệt hại thổ thần gây ra với trị trấn của chúng tôi.”

“Ra vậy. Hơp lí đấy,” người phụ nữ nói với cái gật đầu rõ ràng. “Mà, việc của bọn ta ở đây chỉ là xử lí tên lính đánh thuê tẩu thoát. Nếu hắn không ở đây, bọn ta sẽ rút lui.” Người phụ nữ—thô lỗ đến độ còn chẳng nói tên—điềm tĩnh quay gót và định rời đi. “Ngài Lansdowne, cảm phiền gặp tôi ngoài thị trấn được không?”

“Đ- Ế, ừm, được, dĩ nhiên rồi,” Arlen nói với nụ cười căng thẳng. Hắn nhìn lại để xem Fiona đang nghĩ gì, nhưng cô liếc mắt đuổi xéo hắn, Mau đưa lũ bạn tọc mạch của ngươi ra khỏi đây đi! Hắn hăng hái gật đầu và dẫn nữ hiệp sĩ ra khỏi phòng.

Một lúc lâu, Fiona lắng nghe bước chân của họ xa dần xuống hành lang, cố nín thở. Chỉ khi không thể nghe thấy họ nữa cô mới hắt ra một tràng.

“Aaaaaaaaa… Cái quái gì vừa xảy ra vậy…?”

Cơn tức giận trước sự cộc cằn dữ dội của người phụ nữ, cũng như cách xử lí tình huống ngu si của Arlen, mãi một lát sau mới bộc phát ra.

Cả hai người họ đều lặng lẽ sau khi rời dinh thự Schillings. Họ tập trung ba hiệp sĩ vốn đang chờ ở ngoài, Angela trao đổi những cái gật đầu với họ, rồi họ liền hướng thẳng về phía cổng thị trấn. Cô ta có một nụ cười mỏng trên mặt, nhưng Arlen biết cô ta lúc nào cũng vậy, ngay cả khi đang giận sôi lên, và hắn thực lòng không chắc mình có sống sót nổi chuyến đi ra ngoài thị trấn không. Nếu cô ta phát hiện ra đơn vị của hắn đã không hoàn thành việc, mọi sự nhục nhã hắn nếm trải sẽ đổ sông đổ biển hết.

Ngay khi vừa bước qua cổng, Angela dừng lại và quay lại hắn. “Ngài Lansdowne. Cảm ơn vì đã tiễn.” Bộ họ đã thực sự lừa được cô ta chưa? Arlen chỉ vừa mới thở phào nhẹ nhõm trong tâm thì Angela nói, “Nếu không phiền, có một vài điều tôi muốn hỏi trước khi đi.”

“Như là?” hắn đáp, cố tỏ ra bình tĩnh. “Các nhà truyền giáo khác đâu?” “Hiện tại họ đang… tuần tra khu vực.”

“Chắc rồi. Cơ mà tôi không thấy bất kì hiệp sĩ nào suốt lúc ở thị trấn. Chắc là ngài không cử mọi người đi tuần một lượt đấy chứ?”

Arlen không nói. Đó chính xác là điều họ làm.

Toàn thể nhân lực Lữ Đoàn Truyền Giáo Thứ Sáu của Arlen, phân nửa đã bị trọng thương trong trận chiến lúc đầu với Yukinair và vẫn đang hồi phục. Còn nửa còn lại, một vài đã từ chối thẳng thừng đề nghị của Yukinari và hiện đang bị giam giữ. Một ít còn sót lại, bao gồm Arlen, vốn được đẩy cho việc đi tuần hôm nay. Đoán chừng họ đã đi trước và bắt đầu rà quét, dẫu thắc mắc rằng tại sao Arlen không ở điểm hẹn. Hắn đã cẩn thận dẫn đường tới dinh thự Schillings mà không đụng phải đường đi tuần, nên dĩ nhiên Angela không thấy nhà truyền giáo nào khác cả.

“Và tượng thánh bảo hộ của các người đâu? Với cái xe dùng để vận chuyển nó nữa? Con đường duy nhất quanh đây đủ lớn để chứa được nó là đường chính của thị trấn. Vậy mà ta chẳng thấy vết bánh xe nhiều.”

Giờ thì Arlen thực sự bế tắc. Tượng thánh bảo hộ theo truyền thống được đặt ở nơi bắt mắt nhất mỗi khi đồn trú được đóng tại một thị trấn mới. Từ đó nó có thể bao quát toàn bộ ngôi làng. Một đồng hữu truyền giáo không thấy nó chắc chắn sẽ thấy kì lạ.

“Đừng bảo là nó đã bị hư hại…?”

“P… Phải, tôi e là vậy. Trong trận chiến với thổ thần, một phần của nó…”

Nghĩ lại thì, Fiona có bịa ra mấy điều vô lí về việc Arlen và những người khác mất nhiều trang bị khi bị thổ thần mai phục. Nếu vịn vào đó, có thể hắn sẽ qua được vụ này.

Cô ta sẽ chẳng bao giờ tin rằng bức tượng đã hoàn toàn bị phá hủy, nhưng một phần bị hư hại thì có lẽ là thuyết phục. Ngay cả một thanh kiếm, dùng đủ lâu, cũng có thể nứt và cần sửa chữa. Vũ khí thì luôn lệ thuộc vào việc mang và hỏng.

“Đã vậy thì, ngài đã yêu cầu bộ phận thay thế từ tổng cục Lệnh chưa?”

“Thì… có những sự việc vô cùng… p-phức tạp… liên quan đến…” “Sự việc. Sự việc cơ à?” Angela nhìn hắn, vẫn mỉm cười.

“Thì, cô thấy đấy…” Nhưng Arlen không đủ nhanh trí để cung cấp thêm lời bao biện nào hơn nữa. Mồ hôi đầm đìa, hắn chết lặng.

“…Vậy sao? Rồi, tốt lắm.” Chẳng biết Angela nghĩ gì về điều này, nhưng cô ta không theo đuổi vấn đề thêm nữa. Thay vào đó, với một nụ cười, cô ta nói, “Để ta cho ngài cái này. Hãy xem nó là một dấu hiệu cho sự tin tưởng của ta vào niềm tin Chúa không lay chuyển của ngài.”

Cô ta đưa cho hắn một cái túi da nhỏ.

Bạn đang đọc Bluesteel Blasphemer của Sakaki Ichirou
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi ST04012003
Phiên bản Dịch
Thời gian
Cập nhật
Lượt đọc 2

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.