Hãy Đăng ký Thành viên của TruyenYY để có thể thích, bình luận, đánh dấu chương đang đọc, chuyển giao diện đọc truyện... Chỉ mất chưa đến 1 phút của bạn thôi nhưng còn nhiều điều để khám phá lắm nhé! (Hoặc nhấn vào đây để Đăng Nhập)

Phần năm - Chương 102 - 103 - 104 - 105

Phiên bản Dịch · 3916 chữ

Phần 5: Nụ Hôn của Casanova

Chương 102

Buổi sáng sau khi bác sĩ Wick Sachs bị bắt giữ, Casanova đi dạo quanh hành lang trung tâm y tế Duke. Hắn bình tĩnh rẽ vào phòng điều trị riêng của Kate McTiernan.

Giờ đây hắn có thể đi bất cứ đâu. Hắn lại được tự do.

“Chào em yêu. Cuộc chiến thế nào rồi hả?” Hắn khẽ thì thầm với Kate.

Cô nằm một mình trên giường bệnh, mặc dù vẫn còn một cảnh sát Durham ngồi cạnh dưới đất. Casanova ngồi xuống chiếc ghế tựa lưng thẳng bên cạnh giường. Hắn nhìn cái thân thể tàn phế tội nghiệp mà một thời đã từng là vẻ đẹp xuất chúng̉.

Hắn thậm chí không còn giận Kate nữa. Chẳng có gì khiến hắn giận dữ với hiện tại, phải không nhỉ? Đèn điện vẫn sáng, hắn nghĩ khi nhìn chằm chằm vào đôi mắt màu nâu trống rỗng, nhưng không có ai ở nhà phải không, Kate?

Hắn thích cái cảm giác ở trong phòng bệnh của cô - nó mang lại cho hắn nguồn dưỡng khí, khiến hắn phấn chấn, hào hứng để hướng tới những điều tuyệt vời. Thực sự thì chỉ cần ngồi bên cạnh giường của Kate McTiernan cũng khiến hắn bình yên.

Lúc này hắn rất cần yên tĩnh. Hắn cần phải đưa ra một vài quyết định. Làm thế nào để xử lý tình huống với tiến sĩ Wick Sachs? Có cần đổ thêm dầu vào lửa nữa không? Hay như vậy là quá mức cần thiết, và do đó sẽ gây nguy hiểm hơn?

Cũng cần sớm đưa ra một quyết định đầy khó khăn khác. Hắn và Rudolph vẫn phải rời khỏi khu vực Tam Giác Nghiên cứu này sao? Hắn không muốn - đây là nhà hắn - nhưng có lẽ vẫn phải vậy thôi. Còn về Will Rudolph? Rõ ràng ở California, tinh thần gã đã bị xáo trộn. Gã đang sử dụng Valium, Halcion, và Xanax - những loại thuốc mà Casanova biết. Chẳng chóng thì chày, gã cũng làm hại cả hai phải không? Mặt khác, hắn cảm thấy cô đơn cùng cực khi không có Rudolph bên cạnh. Như thể thiếu đi một nửa cơ thể.

Casanova nghe thấy tiếng động nơi cửa phòng bệnh phía sau hắn. Hắn quay lại mỉm cười với người đàn ông.

“Tôi đang định đi đây, Alex,” hắn vừa nói vừa đứng lên, “Không có gì chuyển biến cả. Thật là đáng hổ thẹn.”

Alex Cross để Casanova đi qua bước ra khỏi cửa.

Hắn phù hợp với bất cứ nơi nào, Casanova nghĩ thầm khi hắn ra ngoài đi dọc hành lang bệnh viện. Còn lâu hắn mới bị bắt. Hắn đeo một chiếc mặt nạ hoàn hảo mà.

Chương 103

Quầy rượu tại nhà khách Duke Washington có đặt một chiếc piano đứng xinh xắn cũ kĩ. Một hôm tôi ở đó chơi các bản nhạc của Big Joe Turner và Blind Lemon Jefferson từ bốn đến năm giờ sáng. Tôi chơi những bản nhạc thể hiện tâm trạng buồn, bứt rứt, chán nản, cáu bẳn, nóng nảy. Nhân viên bảo trì nhà khách chắc hẳn là rất ấn tượng.

Tôi cố gắng lắp ghép mọi thông tin mình biết lại với nhau. Tôi cứ quanh đi quẩn lại với ba, bốn điểm lớn, những điểm mấu chốt là nền tảng của cuộc điều tra.

California

Mối liên kết giữa những con quái vật. Sự gắn kết giữa hai gã đàn ông chưa từng được gắn bó với ai.

Ngôi nhà bốc hơi trong rừng. Ngôi nhà thực sự đã bốc hơi! Sao có thể?

Hậu cung nhốt những người phụ nữ đặc biệt của Casanova - nhưng hơn cả là, “những phế phẩm”.

Tiến sĩ Wick Sachs là giáo sư đại học suy đồi về đạo đức và hành vi. Nhưng liệu hắn có thể là kẻ giết người máu lạnh, vô lương tâm không? Liệu hắn có phải là loại cầm thú đang giam giữ hơn chục phụ nữ trẻ đâu đó gần Durham và đồi Chapel? Hắn có phải là hầu tước de Sade thời hiện đại?

Tôi không nghĩ vậy. Tôi tin, gần như chắc chắn, rằng cảnh sát Durham đã bắt giữ sai người, và rằng tên Casanova thật đang ở ngoài kia cười vào mũi tất cả chúng tôi. Có lẽ thậm chí còn tồi tệ hơn tôi nghĩ nhiều. Có lẽ hắn đang đi săn một phụ nữ khác.

Sáng hôm đó, tôi đến thăm Kate như thường lệ tại trung tâm y tế Duke. Cô vẫn hôn mê sâu, bị coi như đã chết. Sở cảnh sát Durham không còn phân công người canh gác bên ngoài phòng bệnh nữa.

Tôi ngồi bên cạnh canh giấc cho cô, cố không nghĩ đến việc trước kia cô như thế nào. Tôi cầm tay cô cả tiếng đồng hồ, lặng lẽ trò chuyện cùng cô. Bàn tay mềm rũ, hầu như không còn chút sinh khí. Tôi nhớ Kate nhiều lắm. Cô không thể đáp lại, và điều ấy khiến trái tim tôi trống rỗng, đau đớn.

Cuối cùng, tôi cũng phải về. Tôi vùi đầu vào công việc.

Sampson và tôi rời bệnh viện, lái xe đến nhà Louis Freed ở đồi Chapel. Tôi đã nhờ tiến sĩ Freed chuẩn bị một bản đồ đặc biệt khu vực sông Wykagil cho chúng tôi.

Vị giáo sư sử học bảy mươi bảy tuổi đã thực hiện rất tốt đề nghị cùa tôi. Tôi hi vọng tấm bản đồ sẽ giúp tôi và Sampson tìn thấy “ngôi nhà bốc hơi”. Ý tưởng đó xuất hiện trong đầu tôi sau khi đọc vài bài báo viết về vụ sát hại cặp đôi vàng. Hơn mười hai năm trước, thi thể của Roe Tierney được tìm thấy gần “một nông trại bỏ hoang, nơi các nô lệ bỏ trốn từng ẩn náu trong những căn hầm ngầm lớn. Những căn hầm này giống như những ngôi nhà nhỏ dưới lòng đất, một số có đến cả tá phòng hoặc gian riêng biệt.”

Những căn nhà dưới lòng đất?

Ngôi nhà bốc hơi?

Có một ngôi nhà ở đâu đó. Ngôi nhà không hề bốc hơi.

Chương 104

Sampson và tôi lái xe đến Brigadoon, Bắc California. Chúng tôi định cuốc bộ qua rừng đến nơi mà trước đây Kate được tìm thấy ở sông Wykagil. Ray Bradbury đã từng viết rằng “chấp nhận rủi ro là phải nhảy khỏi vách đá, tự tạo nên đôi cánh lúc hạ xuống,” Sampson và tôi đã sẵn sàng nhảy.

Khi chúng tôi lê bước vào cánh rừng âm u, những cây sồi và cây thông California cao chót vót che hết ánh sáng mặt trời. Điệp khúc của đám ve sầu quyện đặc như mật đường xung quanh chúng tôi. Không khí trở nên lắng đọng.

Tôi có thể tưởng tượng, tôi nhìn thấy hình ảnh Kate chạy qua những cánh rừng xanh thẫm này, chiến đấu để giành lấy sự sống chỉ với vài tuần trước. Tôi lại nghĩ về tình trạng cô ấy bây giờ, sống sót nhờ vào những hệ thống hỗ trợ sự sống. Tôi có thể nghe tiếng kêu bíp bíp của các thiết bị. Chỉ cần nghĩ đến đó thôi cũng khiến trái tim tôi quặn đau.

“Tớ không thích cảm giác ở trong những cánh rừng rậm rạp, tối tăm,” Sampson thú nhận khi chúng tôi đi dưới dàn dây leo rậm rì và những ngọn cây giống như túp lều. Cậu ấy mặc áo sơ mi Cypress Hill, quần jean, ủng lao động, đeo kính mát Ray-Ban. “Khiến tớ nhớ đến Hansel và Gretel. Đúng là ba cái thứ cải lương anh bạn ạ. Hồi bé, tớ ghét câu chuyện đó lắm.”

“Cậu thì có lúc nào hồi bé đâu,” tôi nhắc câu ấy. “Mười một tuổi cậu đã ét tám rồi, và có quan tâm đến tác phẩm nghệ thuật nào đâu.”

“Có thể, nhưng tớ ghét những câu chuyện của anh em nhà Grimm. Mặt đen tối trong trí óc người Đức là đã để những ảo tưởng khó chịu bóp méo trí óc trẻ con Đức. Hẳn là cũng có tác dụng đấy.”

Sampson lại khiến tôi bật cười với cái lý thuyết bị bóp méo về thế giới bị bóp méo. “Cậu không ngần ngại điều tra những vụ án của D.C vào ban đêm, nhưng một cuộc đi dạo nhẹ nhàng trong khu rừng này lại làm cậu sợ sao? Ở đây không có gì làm hại cậu đâu. Cây thông. Giàn nho xạ. Bụi cây mâm xôi. Trông thì có vẻ nguy hiểm, có thể lắm, nhưng vô hại.”

“Có vẻ nguy hiểm tức là nguy hiểm. Đó là phương châm của tớ.”

Sampson khó khăn lách cơ thể vạm vỡ qua những cây non và kim ngân hoa quấn chặt vào nhau nơi bìa rừng. Kim ngân giống như một màn lưới giăng khắp mọi nơi. Chúng mọc khá lộn xộn.

Tôi tự hỏi liệu gã Casanova có đang theo dõi chúng tôi hay không. Tôi ngờ rằng hắn là một kẻ quan sát cực kỳ kiên trì. Cả hắn và Will Rudolph đều thông minh, có óc tổ chức, và cẩn trọng. Chúng đã tác oai tác quái nhiều năm mà chưa bị sa lưới.

“Làm sao cậu biết câu chuyện của những nô lệ trong vùng này?” Tôi hỏi Sampson trong khi cuốc bộ. Tôi muốn cậu ta thôi không nghĩ đến lũ rắn độc và dây leo lủng lẳng như rắn nữa. Tôi cần cậu ta tập trung vào kẻ giết người, hoặc có thể là những kẻ giết người đang hiện diện trong khu rừng này với chúng tôi.

“Tớ xem qua một vài nghiên cứu của E.D Genovese, và Mohamed Auad,” cậu ta trả lời. Tôi không biết cậu ta có nói nghiêm túc hay không. Là người thiên về hành động nhưng Sampson rất chịu khó đọc.

“Đường Xe lửa ngầm đã từng được sử dụng ở nơi này. Những người nô lệ cùng cả gia đình bỏ trốn lên phía Bắc đã trú ẩn an toàn trong nhiều ngày, thậm chí trong nhiều tuần tại một số trang trại địa phương. Chúng được gọi là trạm,” tôi nói. “Đó là những gì thể hiện trong bản đồ của tiến sĩ Freed. Sách của ông ấy cũng viết vậy.”

“Tớ không thấy bất kỳ trang trại nào cả, bác sĩ Livingstone[1] ạ. Chỉ có đám nho xạ chết tiệt này,” Sampson càu nhàu, dùng cánh tay dài đẩy những cành cây khác ra.

[1] Bác sĩ, nhà truyền giáo, nhà thám hiểm vĩ đại người Scotland.

“Phía Tây chỗ này từng là những trang trại thuốc lá rộng lớn. Chúng đã bị bỏ hoang gần sáu mươi năm rồi. Còn nhớ tớ đã kể với cậu chuyện một sinh viên Đại học Bắc California bị hãm hiếp và giết hại dã man vào năm 1981 không? Cơ thể bị phân hủy của cô gái đã được phát hiện tại nơi này. Tôi nghĩ Rudolph, hoặc có thể là Casanova đã giết cô gái đó. Đó là khoảng thời gian chúng gặp nhau lần đầu tiên.”

“Bản đồ của tiến sĩ Freed cho thấy vị trí của đường sắt ngầm cổ, và hầu hết trang trại của các nô lệ chạy trốn ẩn náu. Một số trang trại từng mở ra các hầm, thậm chí là những khu nhà dướilòng đất. Giờ đây thì chính các trang trại đều đã biến mất. Máy bay tuần tra không thể nhìn thấy gì từ trên cao. Cây kim ngân và mâm xôi cũng mọc quá dày đặc. Mặc dù những căn hầm vẫn còn đây.”

“Hừm. Cậu có bản đồ tiện ích để xem vị trí của các trang trại thuốc lá thời xưa đó chứ?”

“Có chứ. Bản đồ. La bàn. Có cả một khẩu súng lục nữa,” tôi nói, vỗ nhẹ vào bao súng.

“Quan trọng nhất là,” Sampson nói, “cậu còn có tớ.”

“Chính xác. Chúa sẽ bảo vệ chúng ta khỏi những kẻ vô đạo.”

Sampson và tôi đi mãi, đi mãi trong buổi chiều nóng ẩm, mệt mỏi. Chúng tôi cố gắng tìm ba trong số các trang trại, nơi lá cây thuốc lá từng mọc xum suê; nơi những người đàn ông, đàn bà da đen, đôi khi là cả gia đình họ với khuôn mặt đầy sợ hãi được đưa vào nơi ẩn náu trong những căn hầm cũ, khi họ cố chạy trốn đến với miền đất tự do ở phía Bắc, đến những thành phố như Washington, D.C.

Hai trong số những căn hầm ở chính xác nơi mà tiến sĩ Freed chỉ ra. Những tấm ván gỗ cũ kĩ, kim loại cong vênh đầy rỉ sét là dấu hiệu duy nhất còn lại của trang trại xưa kia. Trông như thể một vị thần giận dữ đã xuống đây phá hủy cảnh sở hữu nô lệ lạc hậu.

Khoảng bốn giờ chiều, Sampson và tôi đến trang trại của gia đình Jason Snyder từng vang bóng một thời.

“Làm thế nào cậu biết chúng ta đến nơi rồi?” Sampson nhìn quanh khu vực nhỏ hẹp, hoang vắng, đổ nát mà tôi dừng lại.

“Bản đồ vẽ tay của tiến sĩ Louis Freed chỉ như vậy. La bàn cũng chỉ hướng tương tự. Ông ấy là sử gia nổi tiếng, nên chắc chắn là đúng.”

Dù vậy Sampson cũng có lý. Ở đây chẳng có gì mà nhìn. Trang trại nhà Jason Snyder đã hoàn toàn biến mất. Như Kate đã nói trước đó.

Chương 105

“Nơi này khiến tớ nổi da gà,” Sampson nói. “Một trang trại thuốc lá ra là thế này.”

Nơi một thời là trang trại nhà Snyder trông đặc biệt kỳ lạ và đầy âm khí, rùng rợn ghê người. hầu như không có bằng chứng xác thực nào chứng minh con người đã từng sinh sống tại đây. Tuy nhiên khi đứng trước đống tàn tích đổ nát của trang trại thuốc lá xa xưa tôi có thể cảm thấy máu xương của những người nô lệ.

Cây de vàng, cây bụi, kim ngân, thường xuân độc mọc cao đến cằm tôi. Nơi mà trang trại trù phú trước kia từng tồn tại thì bây giờ là những cây sồi đỏ trắng, ngô đồng và vài cây gỗ gôm cao lớn tươi tốt. Nhưng bản thân trang trại thì đã biến mất.

Tôi cảm thấy tê tái ngay giữa lồng ngực. Đây có phải là nơi khủng khiếp đó không? Có phải chúng tôi đang đến gần ngôi nhà kinh dị mà Kate đã từng mô tả?

Chúng tôi đã đi về phía Bắc, và giờ tới phía Đông. Chúng tôi không đi quá xa đường quốc lộ, tôi ước giá như trước mình đậu xe tại đó. Theo tính toán sơ bộ của tôi, chúng tôi đi xa đường quốc lộ chưa đến bốn hoặc năm cây số.

“Những đội tìm kiếm Casanova chưa bao giờ quay trở lại đây,” Sampson vừa nói vừa đi loanh quanh thăm dò. “Mấy bụi cây rậm rạp, lộn xộn kinh lên được. Tôi chả thấy dấu chân người đâu cả.”

“Tiến sĩ Freed nói rằng có lẽ ông ấy là người cuối cùng đến nghiên cứu từng vị trí của đường sắt ngầm xưa kia. Khu rừng này dần trở nên rậm rạp um tùm khiến người bình thường không vào được,” tôi nói.

Máu xương của tổ tiên tôi. Đó là một ý nghĩ mạnh mẽ, gần như choáng ngợp: đến nơi những người nô lệ đã từng bị giam giữ trong nhiều năm.

Không ai đến giải cứu họ. Không ai quan tấm đến họ. Không thám tử nào thời đó đi tìm những tên quái vật mặt người, những kẻ bắt toàn bộ gia đình người da màu rời khỏi quê hương của họ.

Tôi sử dụng dấu mốc tự nhiên trên bản đồ để xác định vị trí căn hầm nhà Snyder trước đây. Tôi cũng cố gắng củng cố tinh thần - phòng khi tìm thấy thứ mà tôi không muốn thấy.

“Có lẽ chúng ta đang đi tìm một cánh cửa chui cũ kĩ,” tôi nói với Sampson. “Trên bản đồ của Freed thì không có bất cứ địa điểm nào được đánh dấu cụ thể. Căn hầm được ghi là cách đám cây ngô đồng mười hai đến mười lăm mét về phía Tây. Tớ nghĩ đúng là đám cây này rồi, có khi bây giờ chúng ta đang đứng ngay trên căn hầm không chừng. Nhưng cửa vào là chỗ chết tiệt nào đây?”

“Có lẽ là nơi mà không ai vô tình giẫm lên nó,” Sampson đoán. Cậu ấy đang đi xuyên qua những tầng cây thấp rậm rạp, và hoang dại hơn.

Xa xa sau mớ dây keo chằng chịt là một cánh đồng hoặc đồng cỏ trơ trọi, nơi cây thuốc lá đã từng được trồng và phát triển. Xa hơn nữa là những rừng cây rậm rì. Không khí ngột ngạt tĩnh mịch. Sampson dần trở nên mất kiên nhẫn, và trả thù bằng cách đốn ngã cây kim ngân. Cậu ấy giẫm thật mạnh chân xuống đất, cố gắng xác định vị trí của canh cửa bí mật. Cậu ấy lắng nghe xem có âm thanh rỗng nào hay không, như tiếng gỗ hoặc kim loại dưới lớp cỏ cao và tầng cỏ dại um tùm, chằng chịt.

“Ban đầu chỉ là một hầm rượu lớn sâu hai tấc đất. Có thể Casanova đã cơi nới thêm. Xây một thứ hoành tráng hơn cho ngôi nhà kinh dị của hắn,” tôi nói khi đang tìm kiếm trong những bụi cây thấp.

Tôi nghĩ đến việc Naomi bị giam giữ quá lâu dưới lòng đất. Đã hàng tháng nay, hàng tuần nay, tôi cứ nghĩ mãi về cô bé. Bây giờ vẫn thế. Sampson đã nói đúng về khu rừng này. Nó thật rùng rợn, và tôi có cảm giác như chúng tôi đang đứng ở một nơi ma quái từng xảy ra những chuyện lén lút phi pháp. Naomi có thể đang ở đâu đó gần đây, dưới lòng đất.

“Cậu lại trù ẻo tớ rồi đấy. Đang cố suy nghĩ như tên khốn đó đây. Câu có chắc rằng tiến sĩ Sachs về vườn không phải là Casanova không?” Sampson hỏi trong lúc tìm kiếm.

“Không, cũng chưa chắc. Nhưng tớ không biết tại sao cảnh sát Durham lại bắt hắn. Sao tự dưng họ lại tìm được những bộ đồ lót lại có trong nhà hắn?”

“Bởi có lẽ hắn là Casanova, anh bạn à. Bởi vì có lẽ hắn để đồ lót nạn nhân ở đó để mỗi chiều mưa lôi ra ngửi. FBI và đội phòng chống tội phạm Durham chuẩn bị khóa hồ sơ vụ án này rồi thì phải?”

“Nếu trong thời gian đó không có vụ sát hại hoặc bắt cóc nào nữa. Một khi họ khóa sổ thì gã Casanova thật có thể rảnh tay, lập kế hoạch cho tương lai hắn.”

Sampson đứng thẳng người, rướn cái cổ dài. Cậu ta thở dài. Rồi rên rỉ ầm ĩ. Chiếc áo thun thấm đẫm mồ hôi. Rồi cậu bạn tôi chăm chăm nhìn lên mớ dây leo chằng chịt. “Chúng ta còn phải cuốc bộ cả chặng đường dài về chỗ đỗ xe. Một cuốc đi vừa dài, vừa tối tăm, lại nóng nực, mệt mỏi.”

“Vẫn chưa xong đâu. Cùng tớ làm nốt việc này đi.”

Tôi không muốn ngừng cuộc tìm kiếm mà ra về. Lại được sát cánh bên Sampson quả là tốt phước. Hiện vẫn còn ba trang trại nữa trên bản đồ của tiến sĩ Freed. Hai trong số đó có vẻ nhiều hứa hẹn; còn cái kia thì xem ra quá nhỏ. Nhưng rất có thể đó lại chính là nơi Casanova chọn để ẩn náu. Chẳng phải hắn vốn là kẻ có sở thích ngược đời sao?

Tôi cũng vậy. Tôi vẫn muốn tiếp tục tìm kiếm suốt đêm, không e ngại những cánh rừng tối, lũ rắn đen và rắn hổ mang, lũ sát nhân song sinh.

Tôi nhớ lại câu chuyện kinh hoàng của Kate về căn nhà bốc hơi và những gì diễn ra trong đó. Thực ra thì vào ngày cô trốn thoát đã xảy ra chuyện gì? Nếu ngôi nhà không nằm trong rừng thì nó đang nằm ở chỗ quái nào? Nó phải ở dưới lòng đất. Ngoài ra không còn giả thuyết nào khác…

Không có bất kỳ giả thuyết nào khác.

Trừ phi ai đó đã cố ý xóa đi mọi dấu vết cuối cùng của trang trại.

Trừ phi ai đó đã sử dụng những khúc gỗ cũ để xây thứ khác.

Cuối cùng tôi rút súng ra rà soát xung quanh, bất cứ cái gì để chĩa súng vào. Sampson nhìn tôi qua khóe mắt. Tò mò nhưng không lên tiếng.

Tôi cần phải giải tỏa nỗi giận dữ trong lòng. Làm vơi đi thù ghét và căng thẳng. Ngay tại nơi này và ngay bây giờ. Dù vậy, cũng chẳng có mục tiêu nào để bắn. Không có ngôi nhà kinh hoàng nào nằm dưới lòng đất.

Cũng không có tấm ván mục nát của một trang trại hay chuồng ngựa. Không một dấu tích nào còn sót lại.

Cuối cùng tôi bắn một loạt đạn vào thân cây nhiều bướu gần đó. Trong cơn giận giữ bùng phát, tôi thấy cái bướu nom như đầu người. Một người đàn ông giống Casanova. Tôi lại bắn liên tiếp. Tất cả đều trúng mục tiêu, cực kỳ chuẩn xác. Tôi đã giết Casanova! “Cảm thấy dễ chịu hơn chưa?” Sampson chăm chú nhìn tôi qua cặp kính mát Ray-ban. “Cậu đã bắn trúng đôi mắt tội lỗi của ông ba bị rồi đấy.”

“Đỡ hơn tí. Chẳng nhiều gì cho cam.” Tôi giơ ngón tay cái và ngón trỏ cho cậu ấy xem, khoảng cách giữa ngón tay là một milimét.

Sampson tựa tựa vào một cái cây còi cọc giống như bộ xương người. Những cây non không đủ ánh sáng. “Tớ thật lòng nghĩ rằng chúng ta nên cuốn gói rời khỏi đây thôi,” cậu ấy nói.

Đúng lúc đó chúng tôi nghe thấy tiếng la hét.

Tiếng của những phụ nữ phát ra dưới lòng đất.

Những tiếng la hét nghèn nghẹt, nhưng chúng tôi cũng nghe rõ mồn một. Âm thanh vọng đến phía Bắc nơi chúng tôi đang đứng, vang đến tận những bụi mâm xôi dày đặc, nhưng nơi đồng không mông quạnh sau cánh đồng thuốc lá xưa cũ là nghe rõ hơn cả.

Khi tôi nghe thấy những âm thanh dưới lòng đất là lúc nỗi căng thẳng tột độ bùng phát dữ dội. Tôi vô thức gục đầu xuống ngực.

Sampson rút khẩu Clock ra bắn nhanh hai phát liên tiếp, tạo tín hiệu cho những phụ nữ bị mắc kẹt, cho bất cứ ai la hét dưới lòng đất.

Những tiếng la hét nghèn nghẹt mỗi lúc một to hơn, như vọng lên từ tầng thứ mười địa ngục.

“Ôi chúa ơi,” tôi thì thầm. “Chúng ta tìm thấy họ rồi, John ơi. Chúng ta tìm thấy ngôi nhà kinh dị rồi.”

Bạn đang đọc Nụ hôn của Casanova của James Patterson
Thông Tin Chương Truyện
Đăng bởi Mr. Robot
Phiên bản Dịch
Thời gian
Lượt đọc 21

Các Tùy Chọn

Báo cáo cho QTV
This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.